Sunday, February 24, 2013

Thi sĩ HỮU LOAN - Một nhân cách đáng khâm phục!

HỮU LOAN, THI SĨ CỦA “MÀU TÍM HOA SIM...
 TÍM CHIỀU HOANG BIỀN BIỆT”
[24.03.2010 16:03 - Nhịp Cầu Thế Giới Online]

(NCTG) Vào hồi 19 giờ ngày 18-3-2010, thi sĩ Hữu Loan, tác giả thi phẩm nổi tiếng “Màu tím hoa sim”, thành viên phong trào Nhân văn - Giai phẩm, đã từ trần tại nhà riêng ở thôn Vân Hoàn (xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa), thọ 95 tuổi.

Lão thi sĩ Hữu Loan cùng vợ (ảnh chụp năm 2008)
 

Nhà thơ Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại Thanh Hóa trong một gia đình tá điền. Không được đến trường, chỉ học tại gia và được người cha (là một nhà nho nghèo) dạy dỗ, nhưng bù lại, Hữu Loan có tư chất rất thông minh. Khoảng năm 1938, Hữu Loan vác lều chõng ra Hà Nội đua tài và cùng một vài bạn hữu, ông đã thi đỗ trong một kỳ thi mà số người đậu thật hiếm hoi. 

Có bằng tú tài năm 22 tuổi, một bằng cấp được coi là rất cao trong xã hội Việt Nam thập niên 30-40, Hữu Loan dạy Pháp văn từ 1939 và tham gia Việt Minh từ trước năm 1945. Ông từng tham gia cướp chính quyền ở tỉnh Thanh Hóa tháng 8-1945 và được bầu làm chủ tịch lâm thời tại đây. 

Khoảng thời gian 1946-1951, Hữu Loan theo Đại đoàn 304, tham gia đoàn văn nghệ kháng chiến. Nơi đây, ông có dịp gặp gỡ và làm việc dưới trướng “lưỡng quốc tướng quân” Nguyễn Sơn, một vị tướng am tường văn nghệ và rất yêu quý giới văn nghệ sĩ. 

Phạm Duy, một bạn văn nghệ thời đó của thi sĩ hồi tưởng về ông: “Hữu Loan trông bề ngoài rất là oai, nhất là khi ngày ngày anh cưỡi ngựa đi công tác khắp Quân khu 4, trông rất oai nghiêm khiến tôi bái phục... Đầu húi cua, tiếng nói lớn, vậy mà khi làm thơ thì toàn là thơ buồn”. 

Hữu Loan làm thơ không nhiều nhưng ông có một số bài được nhiều người thuộc, phản ánh tình cảm của con người trong kháng chiến như “Đèo Cả”, “Những làng đi qua”... Thơ của ông hào sảng, phóng khoáng, gân guốc, theo mạch “thơ thời đại”, gây cảm xúc mạnh nơi những người lính trong cảnh chiến chinh, loạn lạc. 

Đặc biệt, nhắc đến Hữu Loan, ai cũng phải nghĩ đến “Màu tím hoa sim”, thi phẩm bi tráng, một bài ca lãng mạn và hào hùng, một tác phẩm kinh điển. Bài thơ ấy, cách đây 6 năm, đã được một doanh nghiệp trong nước mua bản quyền với giá 100 triệu đồng, với mục đích tôn vinh giá trị tinh thần của thi ca Việt Nam. 

* 

Nàng có ba người anh đi bộ đội 
Những em nàng 
Có em chưa biết nói 
Khi tóc nàng đang xanh xanh. 

“Màu tím hoa sim” gắn liền với mối tình huyền thoại của thi sĩ Hữu Loan với cô học trò kém ông 16 tuổi, đã được truyền tụng từ hơn nửa thế kỷ nay trong giới yêu văn thơ. 

Bà Lê Đỗ Thị Ninh (ái nữ ông Lê Đỗ Hữu Kỳ, tổng thanh tra Bộ Canh nông xứ Đông Dương) mới 16 tuổi khi bà thành hôn với nhà thơ Hữu Loan, lúc đó là một chàng trai mẫn thiệp 32 tuổi. 

Trước đó tròn 16 năm, cậu học trò Hữu Loan từng trọ học và ăn ở dài ngày tại gia đình thân phụ bà Ninh và chính tay cậu đã bế cô bé Ninh khi cô mới chào đời được vài ngày. Thấy cậu hiền lành, ông bà Kỳ còn nhận cậu làm con nuôi. 

Thời gian trôi qua, 8 năm sau, trở lại gia đình ông bà Kỳ, chàng trai Hữu Loan được nhận làm gia sư cho cô Ninh và anh thương yêu cô như một người em gái nhỏ. Ngược lại, cô bé thấy và yêu mến ở chàng trai vẻ đĩnh đạc, cứng rắn và dạn dày sương gió. 

Rồi Hữu Loan phải chia tay người em gái: “Cuối mùa đông năm ấy, tôi lên đường đi kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em cứ theo ra mãi tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… Lên đến bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim vẫy tôi. Tôi đi… Tôi quay đầu nhìn lại… Tôi lại đi và nhìn lại cho tới khi không còn thấy em nữa”. 

Lại 8 năm nữa trôi qua. Năm 1948, Hữu Loan trở lại Nông Cống tìm cô em bé nhỏ, như lời kể của ông: “Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều nhưng em không nói, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã 16 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp. Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Đám cưới thật đơn sơ”: 

Ngày hợp hôn 
nàng không đòi may áo mới 
Tôi mặc đồ quân nhân 
đôi giày đinh 
bết bùn đất hành quân 
Nàng cười xinh xinh 
bên anh chồng độc đáo. 

Cưới vợ xong, chàng trai Hữu Loan chỉ ở nhà được hai tuần rồi đi kháng chiến. Gần ba tháng sau, anh nhận được tin người vợ trẻ bị nước dữ cuốn trôi trong khi giặt giũ ngoài sông Nông Cống. Nhà thơ hồi tưởng: 

Em chết thật thảm thương! Hôm đó là ngày 29-5 âm lịch năm 1948. (...) Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn đời tri kỷ, để lại cho tôi nỗi đau không gì có thể bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, hơn 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi… 

Nỗi đau ấy tôi phải giấu kín trong lòng. Tôi như một cái xác không hồn. Dường như nỗi đau càng bị kìm nén thì càng dữ dội hơn. May sao sau đó có đợt chỉnh huấn. Cấp trên bảo ai có tâm tư gì thì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong tôi được dịp bung ra. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những chuyện mộc mạc cứ trao ra”. 

Niềm đau thương, xót xa trước cái chết của người vợ trẻ cộng với tâm cảm dồn nén của người lính nơi biên ải đã khiến Hữu Loan viết “Màu tím hoa sim” rất dễ dàng. Lời thơ tự sự dung dị, cảm xúc dâng tràn, ông đã có những vần thơ đẹp bậc nhất về tình cảm con người trong thời ly loạn: 

Từ chiến khu xa 
Nhớ về ái ngại 
Lấy chồng thời chiến binh 
Mấy người đi trở lại 
Nhỡ khi mình không về 
thì thương 
người vợ chờ 
bé bỏng chiều quê... 

Nhưng không chết 
Người trai khói lửa 
Mà chết 
Người gái nhỏ hậu phương 

Hình ảnh người lính không kịp về trước khi người thương yêu lìa đời được mô tả hết sức bi thương và mãnh liệt: 

Tôi về 
không gặp nàng 
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối 

Chiếc bình hoa ngày cưới 
thành bình hương 
tàn lạnh vây quanh 

Tóc nàng xanh xanh 
ngắn chưa đầy búi 

Em ơi giây phút cuối 
không được nghe nhau nói 
không được trông nhau một lần 

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím 
áo nàng màu tím hoa sim 

Ngày xưa 
đèn khuya 
bóng nhỏ 
Nàng vá cho chồng tấm áo 
ngày xưa... 

Những dòng kết của thi phẩm hết sức thê lương, đầy ám ảnh và có cái gì ma mị: 
  
Một chiều rừng mưa 
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc 
Được tin em gái mất 
trước tin em lấy chồng; 

Gió sớm thu về rờn rợn nước sông 
Đứa em nhỏ lớn lên 
ngỡ ngàng nhìn ảnh chị 
Khi gió sớm thu về 
cỏ vàng chân mộ chí. 

Chiều hành quân 
Qua những đồi hoa sim 
Những đồi hoa sim 
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết 
Màu tím hoa sim 
tím chiều hoang biền biệt. 

(...) 
Nhìn áo rách vai 
Tôi hát trong màu hoa 
áo anh sứt chỉ đường tà 
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu... 

40 năm sau, trong một bài viết mang tựa đề “Tự phỏng vấn” được viết trong bầu không khí có phần đổi mới ở Việt Nam, Hữu Loan nhớ lại: “Bài thơ “Màu tím hoa sim” của tôi (từ trước vẫn do dân tự tiện truyền tụng ngầm, bất chấp lệnh nghiêm cấm của những tướng trấn ải giáo điều), được đăng công khai lần đầu tiên báo “Trăm hoa”. Nguyễn Bính còn cho thuê taxi có loa phóng thanh đi quảng cáo khắp Hà Nội là “Trăm hoa” số này có thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan”. 

Hữu Loan, con người với cá tính mạnh mẽ và không bao giờ chịu khuất phục, trong sâu thẳm tâm hồn, lại thật đa cảm: các bạn văn của ông kể rằng chiếc bình hoa ngày cưới vẫn được ông gìn giữ và cho đến ngày mất, ngày ngày ông vẫn nhang khói cho người vợ quá cố.

(NCTG) Hơn nửa thế kỷ nay, câu hát “Áo anh sứt chỉ đường tà...” vẫn còn day dứt trong mỗi người dân của xứ sở Việt Nam, vốn trải qua bao truân chuyên của các cuộc chiến tranh kéo dài.



Ngôi nhà của thi sĩ ở Nga Sơn (Thanh Hóa)
 

Nhà thơ Thanh Thảo nhận định, “Màu tím hoa sim” mang một nỗi ám ảnh khôn nguôi của cả dân tộc Việt về chiến tranh, về những bi kịch trong chiến tranh”, và đó là lý do khiến độc giả cả hai miền đều ưa thích nó ngay từ khi đất nước phân ly. 

Với niềm xúc cảm chân thành, màu tím hoa sim “tím chiều hoang biền biệt” trong bi khúc ấy đã đi vào văn học sử Việt Nam và trở thành bất tử cùng tên tuổi của thi sĩ Hữu Loan. Đặc biệt, bài thơ đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc: Phạm Duy với “Áo anh sứt chỉ đường tà”, Anh Bằng với “Chuyện hoa sim”, Dzũng Chinh với “Những đồi hoa sim” và Duy Khánh với “Màu tím hoa sim”. 

Tuy nhiên, khi sáng tác thi phẩm để đời ấy, Hữu Loan có lẽ chưa thể nghĩ rằng, đó là điểm khởi đầu cho chuỗi những đau đớn và bi thương trong đời ông. Dù rất được phổ biến trong quần chúng, bài thơ lại bị giới chức sắc văn nghệ coi là “ủy mị”, “tiểu tư sản”, “làm giảm sức chiến đấu”, và bị cấm đoán. 

Nói về lý do khiến bài thơ bị “đánh”, Hữu Loan hồi tưởng: “Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng... Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông... 

Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? (...) Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì!”. 

Là một con người có tài, có tâm và có khí phách, ngay trong thời gian nhiệt thành theo kháng chiến, Hữu Loan đã chủ trương người nghệ sĩ phải được nói lên điều mình suy nghĩ và ủng hộ đường lối tôn trọng văn nghệ sĩ của giới lãnh đạo văn nghệ, mà lúc ấy tướng Nguyễn Sơn là một gương mặt sáng giá. 

Tuy nhiên, sau năm 1951, bầu không khí dân chủ trong sáng tác bị đình chỉ, văn nghệ sĩ bắt đầu bị ép theo xu hướng “văn nghệ minh họa”, lại được chứng kiến những cảnh tượng hết sức thương tâm trong các cuộc đấu tố dã man thời cải cách ruộng đất - mà một nạn nhân là cha mẹ bà Phạm Thị Nhu, người sau là vợ thứ của ông - Hữu Loan đã phẫn nộ xin giải ngũ và bỏ về quê đi cày cho đến năm 1954. 

Lúc đó, có điện mời ông lên Hà Nội làm biên tập cho báo “Văn nghệ”, và làm hội viên Hội Nhà văn. Tình yêu tự do, công bằng, ghét những kẻ xu nịnh, kèn cựa, đố kỵ bẩn thỉu là nguyên nhân khiến ông hào hứng cùng các bạn hữu trong giới nghệ sĩ - như Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Văn Cao... - tham gia phong trào Nhân văn Giai phẩm mà người khởi xướng là cụ Phan Khôi và thủ lĩnh tinh thần là Nguyễn Hữu Đang. 

Mục đích chính của hành động này, như Hữu Loan thuật lại, là để: “Chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn”. Thi phẩm “Cũng những thằng nịnh hót” của ông, sáng tác tháng 9-1956 và đăng trên “Giai phẩm mùa Thu” tập II, chính là một cái tát nhằm vào những kẻ như thế: 

Một điều đau xót 
Trong chế độ chúng ta 
Trong chế độ Dân chủ Cộng hoà 
Những thằng nịnh còn 
          thênh thang 
                    đất sống 
(...) 

Những mồm 
          không tanh tưởi 
Ngậm vòi đu đủ 
Trợn mắt 
Phùng mang 
Thổi vào rốn cấp trên 
“Dạ, dạ, thưa anh… 
Dạ, dạ, em, em…” 
Gãi cổ 
Gãi tai: 
“… anh quên ngủ 
quên ăn 
nhiều quá! 

Anh vì nước 
          vì dân 
                    hơn tất cả 
                              từ trước đến nay” 

Chân xoa 
          và xoa tay, 
Hít thượng cấp 
          cứ thơm 
                    như múi mít 

(...) 
Nguy hiểm thay, 
Thật khó mà trông: 
Chúng nó ngụy trang 
Bằng tổ chức 
          bằng quan điểm nhân dân 
                    bằng lập trường 
                              chính sách 

Chúng nó 
          còn thằng nào 
Là chế độ ta 
          chưa sạch 
Phải làm tổng vệ sinh 
          cho kỳ hết 
                    mọi thằng 


Trên bình diện văn nghệ, Hữu Loan còn lên tiếng phê phán gay gắt một số “tác phẩm” được ca tụng thời ấy, thực chất chỉ mang tính hò, vè ca ngợi cách mạng, ca ngợi lãnh tụ và cái gọi là “quần chúng lao động” một cách thô thiển, mà không có chút nghệ thuật nào. Cùng Hoàng Cầm và Trần Duy, trên tờ “Nhân văn” số 2, Hữu Loan cũng đã có bài viết đanh thép và dứt khoát “cực lực phản đối luận điệu vu cáo chính trị”, để trả lời những quy chụp, mạ lỵ trên báo “Nhân Dân” đối với phong trào Nhân văn Giai phẩm. 

Không có gì khó hiểu khi phong trào bị dập tắt vào năm 1958, Hữu Loan đã bị kiểm thảo nặng nề, rồi phải đi cải tạo. Trong số các văn nghệ sĩ, ông là người hiếm hoi đã giữ vững chí khí, không nhận tội, không tố oan cho người khác, và quyết định rời chốn thị thành về quê sinh sống. 

Ba chục năm sau, bà Phạm Thị Nhu, vợ sau của ông, đã kể lại những tháng ngày khó nhọc ấy: “Khi ông nhà tôi quyết định bỏ về quê, gia đình rất túng bấn, bản thân tôi phải may khâu kiếm thêm. Lúc ấy ở quê lại đang chuẩn bị lên hợp tác xã, ông nhà tôi chỉ băn khoăn là về quê vợ con sẽ khổ, song ông bảo tôi: “Thôi thì bà với các con chịu khổ để cho tôi được sống lương thiện. Tôi mà chịu khó hót thì nhà lầu xe hơi sung sướng đấy, nhưng tôi không làm được.” 

Ông ấy viết 4 lá đơn xin về, trong vòng hai năm mới được giải quyết. Lần cuối còn có hai anh cán bộ đến nhà vận động ông ở lại. Họ nói từ sáng đến trưa, ông bèn cầm cây bút lên bẻ làm đôi, bảo: “Làm cán bộ, làm nhà văn khó lắm. Viết vừa lòng nhà nước thì dân chửi cho, viết vừa lòng dân thì có thể đi tù như chơi. Thôi tôi về đi cày.” Hai anh ấy lại nhờ tôi khuyên ông. Tôi bảo: “Nhà tôi đã quyết thì không ai nói được đâu.” 

Chúng tôi nuôi 10 đứa con khôn lớn thật vô cùng vất vả. Ông nhà tôi đi thồ đá, tôi làm 2 sào ruộng, lại xay bột làm bánh bán ở chợ. Hôm nào bán ế là gánh về một gánh nặng, cả nhà ăn trừ bữa. Tôi cứ xào một xoong to toàn các thức rau, các con đi học về là nhào vào múc ăn thay cơm. Ba đứa trai lớn thì hàng ngày phải dậy từ 3 giờ sáng, kéo 3 xe chuyến xe cải tiến chở đá từ trên núi xuống hồ cách 2 cây số, bán cho các thuyền rồi mới ăn vội bát cơm độn để chạy bộ 7 cây số đi học.” 

Nhà thơ nổi tiếng với những vần thơ lãng mạn về màu sim tím, nay trở thành con người lao động chân tay, làm đủ mọi nghề vất vả để mưu sinh mà vẫn bị làm khó dễ: “Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục”. 

Không chỉ phải sống cực nhọc, Hữu Loan còn luôn trong cảnh bị quản thúc, giam lỏng và nhiều nỗi hiểm nguy rình rập. Như chính ông hồi tưởng: “Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi... (...) Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên”. 

Trong nhiều năm ròng không đến được với thơ, nhưng chính thơ đã có lần cứu mạng sống của Hữu Loan. Thi sĩ thuật lại, có lần, một tay công an mật thú nhận được giao lệnh giết ông, nhưng anh này quê ở Yên Mô, một mảnh đất mà ông từng làm thơ và người công an thì thường hay lấy ra đọc cho đỡ nhớ nhà, nên cuối cùng đã không nỡ ra tay với thi sĩ. 

Sau “30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió” (lời Hữu Loan), năm 1988, trong thời kỳ “mở cửa”, cùng các bạn văn nghệ cũ, nhà thơ cũng được mời lại vào Hội Nhà văn, nhưng ông cương quyết từ chối. Hơn thế nữa, “gian nan lòng không nhợt” (“Đèo Cả”), ông còn “ tái xuất giang hồ” với một hành động quả cảm: lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do Hội Văn nghệ Lâm Đồng và “Tạp chí Langbian” tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự. 

Khí phách ấy, Hữu Loan đã giữ được cho đến cuối đời, và khiến ông được hậu thế khâm phục như một trí thức nổi bật, “một con người cương cường, dám sống cho những điều mình tin, mình yêu và mình nghĩ”, như đánh giá của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên khi ông từ trần. 

Cả đời, Hữu Loan sáng tác không nhiều, nhưng ông vẫn được coi là một gương mặt thi nhân nổi tiếng của Việt Nam thế kỷ XX. Như lời ông tự nhìn nhận về sự nghiệp của mình: “Tôi làm thơ không nhiều, toàn bộ gia tài thơ có khoảng 40 bài nhưng bài nào cũng được khen hay. Thơ tôi không giống ai, ngắt câu, lên xuống dòng tùy ý. Vậy mà lạ: đọc nghe lúc nào cũng mới”. 

Khóc vợ, có hoa tím phân ưu, tiếng khóc hóa lời ca, “thăm thẳm chiều hoang” thành bất tử!” - xin được mượn vế đối viếng Hữu Loan của TS. Hà Sỹ Phu từ Đà Lạt như một lời tiễn biệt một nghệ sĩ lớn, một nhân cách “uy vũ bất năng khuất” của quê hương Việt Nam!

No comments:

Post a Comment