Saturday, February 2, 2013

LỜI NÓI DỐI XUYÊN SUỐT HAI THẾ KỶ!

Tối đèn ở “trái tim thủy điện” Việt NamÔng lão ngoài bảy mươi tuổi ở thôn Ngòi Ngần vẫn chưa một lần được sử dụng điện lưới, cho dù đã hiến nhà cửa cho thuỷ điện Thác Bà. Ảnh: Anh Tuấn

Tối đèn ở “trái tim thủy điện” Việt Nam

(LĐ) - Số 188 - Thứ tư 15/08/2012 06:24
Khoảng năm 1959, những đợt vận động di dân nhường quê hương, đất đai, mồ mả, đình chùa miếu mạo cho công trình thủy điện đầu tiên của Việt Nam - thủy điện Thác Bà, tỉnh Yên Bái - bắt đầu. Đó là một cuộc chuyển dân kỳ vĩ, hào hùng và đẫm nước mắt luyến lưu.
Nếu tính mốc là năm 1962, từ đợt người dân bỏ nhà, bỏ cửa lên rừng hoang núi thẳm chặt cây san đất đá xây dựng quê hương mới ấy, thì đến năm 2012 này, đúng vừa tròn nửa thế kỷ. 50 năm rồi, bây giờ, chúng tôi lại vẫn run rẩy, chết lặng, rơi nước mắt nghe tâm sự của đồng bào ly hương “vì dòng điện ngày mai của tổ quốc”.

Kỳ 1:
Nửa thế kỷ hy sinh vì thủy điện, vẫn chịu cảnh đèn dầu

Trong số khoảng 5,3 vạn người ra đi năm đó, giờ quá nhiều người đã chết. Nhiều cụ già tóc bạc da mồi ngồi khóc, rồi quay ra bất bình: “Chúng tôi bị bỏ quên trong xó rừng này. Chúng tôi như hạt thóc rơi trong kẽ cái hòm cũ”.

Hơn 40 năm thủy điện Thác Bà phát điện, đem nguồn sáng cho cả nước, thế mà vẫn còn không ít đồng bào của hơn 50 xã đã hy sinh tất cả vì chính dòng điện, đang ở sát mép mặt hồ đổ nước vào tuốcbin phát điện ấy thì lại vẫn sống trong cảnh đèn dầu leo lét. Điện, đường, trường, trạm… vẫn tạm bợ lều lán; trường mầm non vẫn dùng cái bếp cũ của nhà dân.

Hơn 5,3 vạn người gánh con vào… rừng hoang

Nằm cách Hà Nội chừng 150km, Thủy điện Thác Bà được xem như thành tựu vĩ đại của chúng ta, nhất là khi mà nó được xây ngay trong thời kỳ bom Mỹ oanh tạc cực kỳ ác liệt. Nó là một trong ba cái hồ nhân tạo lớn nhất Việt Nam, với chiều dài mặt nước là 80km, chiều rộng khoảng 10-15km, tùy theo mùa.

Bà Lương Thị Dư - 50 năm tuổi Đảng, nguyên Phó Chủ tịch UBND huyện Yên Bình trong thời gian xây dựng thủy điện Thác Bà, hiện đang sống ở TP.Yên Bái - nhớ lại: “Ngoài việc xắn quần, cả ngày lẫn đêm đi vận động, thu xếp cho bà con di dời phục vụ lòng hồ thủy điện, tôi còn được cấp trên phân công theo dõi động tĩnh hằng ngày của Mỹ. Có khuya, bỗng dưng Mỹ thả bom, tôi lại khăn gói lên đường. Ngày 15.7.1965, hơn 50 học viên và cán bộ y tế bị bom Mỹ thảm sát cùng lúc ở ngay giữa trung tâm TP.Yên Bái. Hàng trăm công nhân thi công thủy điện Thác Bà cũng bị chết vì bom đạn của “giặc trời đế quốc”.

Giữa bối cảnh lửa đạn quân thù, kèm theo sự khó khăn về kinh tế, những lúng túng trong lần đầu tiên di dân của 54 xã cho một đại công trình quá lớn như thủy điện Thác Bà, thật là muôn bề vất vả.

Tài liệu chính thức đang được lưu giữ tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Yên Bái: Để xây thủy điện Thác Bà, tỉnh Yên Bái đã phải chuyển 8.913 hộ dân, chính xác là 53.500 người. Riêng huyện Yên Bình đã phải chuyển bốc 33.000 mồ mả, 23.000 căn nhà, với 35.000 nhân khẩu đi “xây dựng quê hương mới”.
Hàng ngày sống trên mặt hồ thác Bà, người dân Ngòi Ngần chưa bao giờ được sử dụng điện lưới quốc gia.
Bà Dư nhớ lại: Bấy giờ không có chuyện Nhà nước dọn sẵn mặt bằng, xây sẵn nhà cửa, “đền bù” cho mỗi hộ vài trăm triệu đến cả tỉ đồng mà đến nơi ở mới - như cách làm của các thủy điện di dân tái định cư bây giờ. Bà con gồng gánh con cái, tư trang, chút của nả ít ỏi mà ngậm ngùi trèo núi ra đi. Những chỗ màu mỡ thì dân cựu ở các vùng đất người “lòng hồ” di đến, dĩ nhiên họ chiếm cả rồi. Chỉ còn những cái dộc, hủm, những quả đồi trơ cằn thôi.

Bà con quẩy đôi quang gánh, bốc bát nhang đặt vào một bên, đồ đạc để bên cạnh, đầu thúng bên này thả đứa con dại, thế là đi đến khoảnh rừng mới. Đi dưới tán rừng rậm rạp tối thui, thích chỗ nào thì xin phép cho phát rẫy chặt cây dựng tạm cái lều, gọi đó là nhà cửa quê hương mới. Đặt bát hương tổ tiên xuống.

Cuộc sống bắt đầu lại gần như từ con số không. Khổ nhất là nhóm người dân xã Đồng Tâm phải di lên vùng Rãnh Cày của huyện Văn Yên rừng núi. Rừng núi trập trùng, tre nứa ken nhau cọc chi chít án ngữ mọi lối đi. Dân dựng lều, trong thung lũng chỉ toàn những hòn đá cuội trắng to bằng cái ấm ủ, đụng vào là lăn ào ào. Cây sắn trồng lên, củ chỉ bé bằng cái ngón tay. 

Ông Lương Hồng Thái - ngoài 70 tuổi, hiện đang sống ở xã Tân Hương, huyện Yên Bình - kể: “Tôi và vợ cùng 4 đứa con, vào tít trong hẻm núi của xã Tân Hương bây giờ. Ở đó heo hút, có cả beo, gấu; lại hoang vu rậm rịt tột cùng. Chúng tôi hãi quá, mới bảo nhau chuyển dịch ra phía ngoài cho đỡ âm u, kẻo có ngày hổ nó bắt thì thành đống xương trắng giữa rừng. Ra đó, cán bộ xã lại nhắc: Chỗ đó quang đãng, bom Mỹ nó hay đánh lắm. Nhà ông ở đó thì nhớ phải đào hầm kẻo có ngày thiệt thân. Tôi nghĩ, gớm, thị xã tỉnh lỵ Yên Bái với lưới lửa phòng không thế mà Mỹ nó còn thảm sát một lúc chết gần sáu chục người, thời loạn lạc chỗ nào chả nguy hiểm. Thế là di ra ngoài này”.

Đến lúc gấp rút rồi, thì mồ mả ông bà cũng không kịp chuyển đi, trong đó có gia đình ông Thái. Lúc chuyển lên, khai hoang lập lán ở tạm rồi, quay trở lại thì nước hồ đã dâng ngập hết mộ. Ông Thái bấy giờ ngoài hai mươi tuổi, chả biết rõ ràng lắm chuyện mồ ông mả cụ. Thế là phải mời ông bác già đi chỉ điểm, hướng dẫn. Rồi anh chàng Thái cùng vị trưởng lão lên thuyền, bơi ra ngoài hồ, dò áng chừng chỗ nào là nghĩa địa để tìm mộ. May là nước lên từ từ, bấy giờ nước mới cao tới ngực người trưởng thành thôi.

Ông bác ngoài bảy mươi ngồi trên thuyền chỉ đạo, ông Thái hì hụi đào. Dùng thuổng đào từng tí đất để bẩy lên. Nước đục ngầu, hai ông cháu lại đợi vài tiếng cho nước trong trở lại mới nhìn thấy mộ để mà bẩy tiếp. Nước lớn, mộ ở sâu, lặn mà đào trong nước đục, lại thêm mộ ở đất đồi dưới đáy hồ, nên khi bẩy rất rít nước. Đến tối, thì mấy cái tiểu sành mới được đưa lên thuyền.

“Tôi rong thuyền chuẩn bị về, thì ông bác già - có lẽ do quá xúc động - đã rơi bòm xuống hồ. Tay giữ thuyền và tiểu quách, tôi ngụp xuống bế ông cụ lên, giữa trời gió lạnh hiu hiu. Trên bờ, khói hương vẫn nghi ngút. Cảnh ấy nó thảm sầu vô cùng, không bao giờ quên được, không lúc nào tôi không bị ám ảnh...”, ông Thái hồi tưởng trong nước mắt.

Đấy là chưa kể, cả trăm chùa, đình, miếu mạo, nhà thờ... của bà con đã vĩnh viễn nằm lại dưới đáy hồ. Người làng Khoang chua xót bảo nhau mang sắc phong (thờ danh tướng Vũ Công Mật làm thành hoàng) của đình ra đi. Bây giờ, cháu ông Thái - là anh Lân, người ở thôn Đoan Thượng, xã Tân Hương, huyện Yên Bình - còn giữ tờ sắc phong có số phận khá kỳ lạ này.

Theo thống kê chưa đầy đủ từ một tài liệu tương đối đáng tin cậy, riêng huyện Yên Bình, có ít nhất 30 nhà thờ, 40 chùa miếu dọc hai bờ sông Chảy, cùng hơn 3.000 mồ mả của 37 xã đã bị vùi trong lòng nước.
Đường vào xã Bảo Ái thì như thế này đây.
Sờ tay vào điện mà không bị... giật

Bà Lương Thị Lầm - nguyên Bí thư Đảng ủy xã Tân Hương, người trực tiếp vận động và tổ chức di dân cho thủy điện Thác Bà năm xưa - ngồi bấm đốt ngón tay, “các khe “vùng ba” khó khăn của xã chúng tôi còn nhiều quá: Khe Móc, khe Mây, khe Đồi Hồi, khe Gáo, khe Mạ...

Anh Nguyễn Trung Sơn - Phó Chủ tịch UBND xã Bảo Ái, huyện Yên Bình - thì kêu trời: “Xã tôi có tới 200 hộ dân của mấy thôn bản, họ ở sát mép hồ thủy điện Thác Bà, mà chưa bao giờ họ có điện cả”.

Anh Sơn dẫn chúng tôi vào bản Ngòi Ngần, đường núi non, lầy thụt, trường tạm bợ, điện chưa bao giờ vào đến với bà con, người mù chữ tràn ngập. Trong lịch sử dài đằng đẵng của Ngòi Ngần, tính đến năm 2012, chỉ mới có duy nhất con gái Trưởng thôn Lê Thế Vinh là mới vừa tốt nghiệp cấp 3. Nhiều thôn bản mới tấp tểnh có điện, nhưng điện không đủ tải, nó yếu đến mức, “thắp sáng được thì không xem tivi được, xem tivi được thì thôi không thắp sáng. Mà điện yếu, nên tivi lúc “chiếu” phim nó cứ bị co màn hình lại, có khi hình ảnh chỉ bằng nắm tay. Điện yếu đến mức sờ tay vào không thèm giật!”. 

Vì sự vô lý và nỗi đau những sự hy sinh dường như bị quên lãng kia, mà bà Lầm thốt lên: “Hóa ra tôi đi vận động năm ấy, nghĩa là tôi nói dối, nói phét với dân ư? Chúng tôi bảo là nhà máy hoạt động thì sẽ có điện cho bà con, bà con được dùng đầu tiên. Vậy mà chừng nửa thế kỷ trôi qua, điện vẫn phát, bà con vẫn tăm tối”.
Người dân Ngòi Ngần sử dụng thuỷ điện nhỏ trên suối vì chưa có điện lưới quốc gia.
Bà con kêu ca mỗi lúc họp dân, các ý kiến được chuyển lên xã, huyện, tỉnh, tới các đoàn đại biểu Quốc hội về tiếp xúc cử tri, các cuộc họp hội đồng nhân dân - họ muốn đề đạt nguyện vọng được sử dụng điện lên Nhà nước.

“Nếu có điện thì bảo gì dân tôi cũng nghe. Chưa có điện, thì cán bộ vận động đóng tiền nong, quỹ kiếc, chúng tôi không hưởng ứng nữa đâu” - một cán bộ xã băn khoăn nhắc lại nỗi bức xúc của bà con. Kêu mãi, rồi gần 50 năm trôi qua, vẫn chưa có điện. Nhiều người sống biệt lập cả xóm mười mấy hộ giữa lòng hồ, hằng ngày tắm táp, bơi thuyền, kiếm cá trên chính lòng hồ hàng tỉ mét khối nước sinh ra nguồn điện hòa vào lưới điện quốc gia đó; phía dưới đáy hồ là quê hương, mồ mả tổ tiên, di tích lịch sử văn hóa của họ - nhưng bản thân họ thì chưa bao giờ được hưởng thụ một “tia” điện nào.
Bà Lầm bảo: “Lãnh đạo xã cùng thế hệ cán bộ với tôi hồi đi vận động dân, đều chết cả rồi”. Chỉ còn mình bà Lầm sống để nghe dân trách móc. “Chồng tôi cũng là đảng viên, nên ông ấy không nói gì, song thật ra ông ấy cũng nghĩ và trách móc lắm việc thất hứa, bỏ quên này” - bà Lầm thật thà.

Chờ ánh điện cho đến lúc… chết

(LĐ) - Số 190 - Thứ năm 16/08/2012 06:44
Riêng xã Bảo Ái, có ít nhất 200 hộ dân, cả nghìn người, bao năm qua cứ đau đáu ước mơ sẽ có ngày thủy điện trả nợ mình, tri ân với xiết bao hy sinh của mình và cha anh mình bằng cách... cho sử dụng điện.
Mái nhà của người dân Nậm Ngòi không có các thiết bị điện như những ngôi nhà khác.
Bà con buồn bã, tuyệt vọng, bất bình, kiến nghị khắp mọi “cửa” từ thôn bản đến trung ương.

Ông Hoàng Văn Các - nguyên Đại biểu Quốc hội - vừa ra đi ở tuổi ngoài 80 tại bản chưa có điện thở dài: “Bà con ạ, người ta bỏ quên các vùng dân cư hy sinh tất cả cho thủy điện Thác Bà năm xưa như chúng ta rồi. Ta như hạt thóc lọt xuống đáy hòm”.

Ông Các mất đã 2 năm, đến giờ Ngòi Ngần và mấy thôn bên cạnh vẫn chịu cảnh đèn dầu. 

1 xã “lòng hồ” có 4 thôn đèn dầu

Anh Nguyễn Trung Sơn - Phó Chủ tịch UBND xã Bảo Ái, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái - đi tìm mấy cái xe máy cho chúng tôi tự leo dốc cao, vượt đường bùn nhão để vào thăm các thôn bản hy sinh vì lòng hồ thủy điện 50 năm qua. Mất cả tiếng đồng hồ đánh vật với các cung đường rợn tóc gáy, chúng tôi nhìn thấy rất rất nhiều hòn đảo xanh soi gương xuống mặt nước hồ thủy điện Thác Bà.

Hồ Thác Bà có tới 1.300 hòn đảo kỳ ảo như thế. Xã Bảo Ái có hơn 9.000 dân, là xã đông dân thứ nhì của huyện Yên Bình, chỉ thua thị trấn huyện. Cùng với 3 thôn tận khổ khác, Ngòi Ngần 100% số diện tích, số dân chịu cảnh... chưa bao giờ có điện.

Xã, huyện, tỉnh, trung ương, hình như chưa tính đưa điện vào. Với người dân, đường xa khoảng 5-6km từ đường nhựa vượt núi vào thôn, họ lấy đâu ra tiền mà mua cột điện, kéo dây? 

Ngành điện thì họ chỉ lo kinh doanh và lại “độc quyền”, nên việc đầu tư hệ thống dẫn điện vào góc rừng đó thì có mà... lỗ tan thây. Thế là họ cứ bỏ mặc bà con.
Đường vào xã Bảo Ái thì như thế này đây.
Chúng tôi liên lạc với ông Giang - Giám đốc Thủy điện Thác Bà - ông nói cứ tưởng 100% bà con di dân năm xưa đã có điện (!). Ông nói nhiệm vụ của đơn vị là sản xuất điện hòa vào lưới quốc gia, chứ không phải kéo dây điện hay trích quỹ phúc lợi ra lo cho những người hy sinh vì lòng hồ thủy điện đã mấy mươi năm mà chưa có điện kia.

“Cái này các anh phải về hỏi Sở Điện lực Yên Bái ấy” - ông Giang nói. Một lãnh đạo tỉnh Yên Bái thì khuyên nên gặp ông Thực - Phó Giám đốc Sở Công Thương Yên Bái - mà hỏi.

Ông Thực nói với tôi, đã và sẽ có dự án “thắp sáng” cho đồng bào đã hy sinh quá nhiều quyền lợi dâng hiến cho thủy điện Thác Bà năm xưa (!?).

Đói nghèo với tốc độ... truyền tải điện

Trong khi dự án cấp điện còn đang... hình thành và chuẩn bị thực thi với “tốc độ rùa bò”, thì đói nghèo và thất học cứ trùm lút nhiều vùng dân cư tội nghiệp kia với tốc độ... truyền tải điện! Với 110 hộ dân, với 565 khẩu, thôn Ngòi Ngần chiếm tới 90% dân số là người có nguồn gốc từ dưới đáy lòng hồ thủy điện Thác Bà “ngoi lên”. 90%  số hộ “đạt chuẩn” đói nghèo. Bởi tại suốt mấy chục năm đằng đẵng “tăm tối”, nghèo đủ nhẽ, nên Ngòi Ngần tràn ngập bi kịch.

Trưởng thôn Lê Thế Vinh là người Tày, xốc vác lắm. Anh vốn là công an viên, ngay từ năm 1996, lúc mới “nhận chức”, thấy thanh niên rượu chè, đánh lộn quá mức, anh rà soát rồi vạm vỡ xông pha bắt, xử lý tất.

“Họ sợ tôi đến mức, có xô xát gì, chả ai dám báo với tôi nữa. Như thế lại không tốt cho công tác an ninh. Nhưng vì bắt nhiều người quá, tôi mới nhận ra hầu hết họ không biết chữ. Tôi bèn dạy họ cách vẽ tên mình to như quả trứng gà, gọi là ký biên bản. Có khi họ đánh vật khoảng 7 phút mới vẽ xong một cái chữ là tên của họ” - anh Vinh chua xót kể.

Hết ánh mặt trời là tăm tối bịt bùng, học trò chỉ còn biết đi ngủ từ lúc nhập nhoạng tối. Thế rồi dốt, chán, bỏ học sớm.

Lúc ban ngày thì nóng nực không tài nào làm được việc gì ngoài... phành phạch quạt nan. Đường sá gập ghềnh chín suối mười đèo mới ra đến ủy ban. Nhà mẫu giáo thôn thì hiện tại vẫn đang mượn tạm cái bếp bỏ hoang nhà ông Quang mà dạy và học. Cái vòng khó khăn, thiếu thốn, thất học, đói nghèo cứ luẩn quẩn chưa biết bao giờ mới thôi. 

“Bà con thấy tôi làm công an viên quá nhiệt tình, họ bèn bầu luôn làm trưởng thôn” - anh Vinh kể tiếp, khi ngồi cạnh Phó Chủ tịch Nguyễn Trung Sơn tại nhà mình.
"Bao giờ thì Ngòi Ngần và nhiều vùng dân cư của Bảo Ái có điện? Không ai trả lời được. Chúng tôi cũng chỉ còn biết hứa với bà con là cố mà chờ đợi, hy vọng", anh Nguyễn Trung Sơn - Phó Chủ tịch UBND xã Bảo Ái, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái - nói.
Càng gặp gỡ bà con, anh Vinh càng thấy đau cho thảm cảnh của những người hy sinh vì thủy điện. Lúc đầu là 5,3 vạn người ra đi, gần nửa thế kỷ qua, con cháu chắt của những người đó đã sinh ra, thậm chí đã chết đi khá nhiều thế hệ - xin nhấn mạnh: Tất cả số dân khổng lồ đó, đều chung số phận bị bỏ quên giữa rừng xanh núi đỏ!

Chồng của bà Lương Thị Đánh, trước khi chết, chỉ đau đáu ước ao, giá mà thôn Ngòi Ngần của mình có điện thì tôi chết cũng nhắm được mắt.

Bà Lương Thị Săm - chị gái bà Đánh - ngoài 70 tuổi, từ khi theo mẹ di dân từ chỗ nay là đáy hồ lên miền rừng nay gọi là bản Ngòi Ngần để vỡ một mảnh ruộng giữa rừng hoang vẫn liên tục cầu trời cho quê mình có điện.

“Tôi thấy cách đây 10 năm người ta đã vào khảo sát, nói là sang năm làm đường điện vào Ngòi Ngần, nhưng càng chờ thì càng... mất hút. Chúng tôi đã kiến nghị lên tất cả các cấp rồi, nhưng tuyệt nhiên chưa một ai trả lời chúng tôi là bao giờ thì quê tôi có điện. Suy nghĩ thấy nó “tiêu cực” trong lòng quá” - bà Đánh đanh thép nói. 

Hạt thóc bị bỏ quên trong đáy hòm

Không có điện, bà con nghĩ ra đủ cách để chung sống với bóng tối và cái nóng nực kinh khủng của mùa hè. Mỗi người một cái quạt làm bằng lá cọ. Nhà nào khá giả thì mua máy nổ, dăm bảy nhà chung một cái, song cứ hai tiếng chạy máy thì mất vài ba trăm nghìn đồng, ai cũng phát hoảng “bỏ máy chạy lấy người”. Có người dùng ắcquy nạp điện.

Xã Bảo Ái có tới 4 thôn chưa có điện lưới. Bà con đang có xu hướng dùng máy thủy điện nhỏ thả dưới suối để sản xuất điện cho từng gia đình. Nhưng “sáng tạo” này còn gặp bi kịch hơn. Suối Ngòi Ngần bao năm ào ạt trong xanh, từ ngày ai đó nghĩ ra chuyện thủy điện nhỏ, thì nước suối cạn trơ đáy. Người ở đầu nguồn nước chặn suối lại, tích nước hòng phát điện cho nhà mình. Toàn bộ hạ lưu của suối cạn trơ, các thủy điện nhỏ khác biến thành cục sắt gỉ vô dụng.

Có khi, nhà bà Hoàng Thị Đánh, nhà anh Lê Thế Vinh, vì ở cuối nguồn nước, nên cứ chờ đến 21h, nước trên nguồn được “thả” về, mới có thể... le lói phát ra ánh sáng phục vụ việc ngủ.

Có đợt, suốt mấy tháng trời không một giọt mưa, thủy điện nhỏ không thể hoạt động. Vì không có điện, nên ở Ngòi Ngần gần sáu trăm nhân khẩu, quá nhiều người mù chữ và mới chỉ có 1 người tốt nghiệp cấp 3.

“Mù chữ đi vay vốn ngân hàng khổ lắm, phải điểm chỉ. Nhưng khổ hơn là hơn nửa thế kỷ hy sinh cho thủy điện, lên rừng rú khai hoang, dựng bản làng nhà cửa, đến giờ 100% đất ở của người dân vẫn chưa hề có sổ đỏ. Không có sổ thì ngoài Ngân hàng Chính sách xã hội, họ không được thế chấp vay tiền ở bất kỳ ngân hàng nào khác. Trong khi đó, Ngòi Ngần có đến 90% số hộ thuộc diện đói nghèo. Cái vòng luẩn quẩn đó, đêm nằm, trót là trưởng thôn rồi, tôi càng không tài nào ngủ được” - anh Vinh giãi bày.

Ngoài Ngòi Ngần, chuyện buồn cũng diễn ra tương tự ở các thôn Ngòi Nhầu, Ngòi Mấy, Ngòi Kè, Vĩnh An... của xã Bảo Ái. Đến nay chỉ một hai thôn, lác đác có vài hộ tự bỏ tiền, mắc dây, “xin ké” chút ánh sáng điện từ nơi xa về. Điện ấy - như đã nói - yếu đến mức sờ vào không thèm giật. 

Đúng như lời ông Hoàng Văn Các khóc nói với người dân cách đây 2 năm trước khi chết: “Chúng ta là hạt thóc bị bỏ quên trong đáy hòm ở góc bếp”. Tất cả các đoàn cán bộ có thể gặp được, người Ngòi Ngần đều đã gặp và kiến nghị chấm dứt những cái vô lý mà mình đang phải gánh chịu.

Phó Chủ tịch Nguyễn Trung Sơn buồn rầu: “Họ cứ hỏi mãi, chúng tôi thương và chia sẻ với bà con lắm, nhưng không biết trả lời thế nào, vì mình ở cấp cơ sở. Chúng tôi cũng đi hỏi, lên tận tỉnh, tận các đoàn cao cấp, chỉ một đau đáu mà bà con gửi gắm: Bao giờ thì Ngòi Ngần và nhiều vùng dân cư của Bảo Ái có điện? Không ai trả lời được. Chúng tôi cũng chỉ còn biết hứa bà con là cố mà chờ đợi, hy vọng”.

Dứt câu chuyện về lời hứa mấy mươi năm còn bỏ ngỏ, bố đẻ trưởng thôn Vinh là cụ Lê Thế Hưng - ngoài 70 tuổi - mới cất lời. Sức cụ đã yếu lắm, cụ di khỏi quê cũ, sống lang thang trên thuyền bè, rồi định cư vào Ngòi Ngần phá núi lập thôn bản từ mấy mươi năm trước. Giờ gần đất xa trời, điện chưa về đến quê mình, ông cứ ngồi phe phẩy quạt lá cọ, ngắm cái đèn dầu đỏ đòng đọc mà đay đi đay lại: “Các cán bộ họ đã quên mất nhóm dân hy sinh vì thủy điện này rồi ư?”.
 Món nợ ân tình cần phải trảTrường mẫu giáo thôn Ngòi Ngần hiện nay vốn là cái bếp bỏ hoang của bà con.

Món nợ ân tình cần phải trả

(LĐ) - Số 191 - Thứ sáu 17/08/2012 06:13
Có thể nói một câu không sợ hồ đồ rằng: Những thiệt thòi quá lớn và rất khó hình dung của nhiều thế hệ hy sinh vì thủy điện Thác Bà đã lên đến đỉnh điểm. Mấy chục năm qua, người dân, lãnh đạo xã kiến nghị trong bất cứ diễn đàn nào, từ cấp thôn bản đến Chính phủ.
Thế rồi, dự án đem điện cho vùng tối đèn ven nhà máy thủy điện cũng được triển khai. Dù quá chậm chạp, dù nó ra đời khi giọt nước tưởng như đã tràn ly đau đớn, nhưng muộn vẫn còn hơn không.

Suốt những ngày lang thang ở vùng lòng hồ mênh mông Thác Bà, chúng tôi cứ đay đả, hùi hụi buồn cho cái món nợ ân tình mà tất cả chúng ta phải trả cho người dân đã bỏ tất cả để nhường chỗ cho thủy điện đầu tiên của Việt Nam ra đời. Cán bộ địa phương và người dân tận khổ dường như oán thán liên miên. Nhưng, bất ngờ thay, khi làm việc với Sở Công Thương, lãnh đạo UBND tỉnh Yên Bái, chúng tôi mới được biết có một dự án hơn 600 tỉ đồng đang xúc tiến triển khai cho 197 thôn bản khó khăn của tỉnh, trong đó có vùng tối cận kề nhà máy thủy điện vĩ đại mà loạt bài này phản ánh. Chao ôi, sự “vênh”, khoảng cách quá lớn giữa tâm trạng của người dân và quyết định của nhà quản lý, trong trường hợp này thật đáng buồn. 

Trở lại với bà con mấy chục năm sống phận đèn dầu ở cận kề nhà máy thủy điện kỳ vĩ kia. Ông Lương Hồng Thái - người dân xã Tân Hương, huyện Yên Bình mà chúng tôi đã dẫn trong kỳ 1 - giọng đầy chán nản: “Trước đây, chúng tôi cũng nhiều lần nghe cơ quan cấp trên đề nghị phương án đề nghị thủy điện Thác Bà và cơ quan hưởng lợi từ nhà máy này hãy trích một phần kinh phí ra, bù đắp thiệt thòi cho bà con. Chứ so sánh với bây giờ, người dân di ra khỏi vòng lòng hồ các thủy điện khác, họ được quá đầy đủ, tiền nong, nhà cửa, đất đai, điện đường trường trạm; có khi chỉ chuyển một khối đá di tích thôi, cũng mất vài tỉ đồng của Nhà nước rồi... thì mới càng thấy, bà con chúng tôi hồi đó thiệt thòi quá. Bây giờ vẫn sống cảnh đèn dầu còn thiệt thòi hơn”. 

Điện - bài toán của niềm tin và lương tri

Phó Chủ tịch xã Bảo Ái - ông Nguyễn Trung Sơn - cũng não lòng ngồi nghe ông Lương Văn Than... than thở, rồi nói: “Chúng tôi chẳng biết phải làm thế nào để giải thích cho bà con hiểu”.

Năm nay 79 tuổi, mấy chục năm đến nơi ở mới, nơi mà chỉ lo sơ sểnh bước một chân ra khỏi cửa là rơi tõm xuống hồ Thác Bà, ông Lương Văn Than - người Dao, ở Ngòi Ngần - không tài nào hình dung được, đến tận bây giờ, gia đình ông vẫn chưa bao giờ được dùng điện. Ông cùng hơn năm vạn đồng bào đã chôn lấp tất cả ký ức, tài sản, quê hương cho lòng hồ này. Ông cứ hỏi: “Mình ở gần nhà máy đến mức ấy mà sao vẫn không được dùng điện nhỉ?”.

9 người con ông Than cũng thắc mắc như cha mình, nhưng có thêm cái lý: “Chúng tôi ở gần nhà máy thế cơ mà, điện đến chỗ tôi trước chứ, sao tít ngoài phố xá, tít Hà Nội người ta lại có điện mà chúng tôi thì mãi phận đèn dầu quạt mo?”. 

Hoàn cảnh của ông Than nó thảm lắm. Nhà cửa hổng hoác, đứng trong nhà mái rách, nhìn thông thống cả bầu trời nắng nỏ. Muốn đến nhà ông Than, người ta phải đi bộ theo lối lăn như quả bóng từ đỉnh núi xuống, nhỡ tay là lăn tuột xuống hồ thủy điện 3,9 tỉ mét khối nước. Nhìn cái cảnh họ cầm đóm nứa soi cho nhau ăn cơm trong bịt bùng trời đêm Ngòi Ngần, đúng là vô lý rớt nước mắt.
Ôông Lương Hồng Thái: Chúng tôi chả được gì, thiệt đủ đường.
Tại kỳ họp Quốc hội năm 2012 vừa rồi, có đại biểu đã tổng kết: Trong nhiều vạn người phải di dân tái định cư vì sự nghiệp công nghiệp hóa của đất nước ta, thì những người di dân tái định cư cho các lòng hồ thủy điện là khổ nhất. Thiếu thốn của họ, việc mất hoàn toàn dấu vết quê hương bản quán của họ là cái gì đó không tiền bạc nào bù đắp được. Huống hồ như người dân ra đi vì lòng hồ thủy điện Thác Bà, họ gồng gánh, tay trắng bỏ quê hương, phá rừng dựng lán vô cùng lao khổ.

Hàng trăm công nhân đã ngã xuống vì máy bay Mỹ oanh tạc trong khi thi công thủy điện (năm 1965), giờ công trình đó lại gieo vào biết bao người dân nỗi oán thán vì không có điện và kéo theo đó biết bao hệ lụy, thì thử hỏi có phải chúng ta đã để thực trạng này như một sự vô ơn với người đã đổ xương máu kia không? Bà Dư, bà Lầm, ông Thái và cả một thế hệ cán bộ nhiệt tình cách mạng năm xưa đã đi vận động, tổ chức di dân, hứa là bà con sẽ là những người đầu tiên được sử dụng điện.

Bây giờ, hầu hết cựu cán bộ đó cảm thấy xấu hổ vì mình đã vô tình nói dối dân, nỗi dày vò đó, ai sẽ gánh? Câu chuyện điện lưới hay chưa điện lưới ở đây, bỗng dưng đã rẽ sang một ngả khác, ấy là niềm tin của bà con vào lời hứa của người cán bộ. Ấy là ý nghĩa nhân văn của một đại công trình đang cổ phần hóa, đang đem lại giàu sang cho nhiều người ở cái ngành “độc quyền” như ngành điện. 

Điện sẽ sớm về?

Trước những bức xúc kiến nghị quá quyết liệt của bà con gần nửa thế kỷ, mới đây, Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải đã ký văn bản đồng ý cho tỉnh Yên Bái thực hiện dự án hơn 600 tỉ đồng cấp điện cho 197 thôn bản khó khăn, đặc biệt là các xã vùng tái định cư vì thủy điện Thác Bà. Dự án sẽ khởi công trong quý III năm 2012. Điện sắp về với người dân vùng lòng hồ thủy điện Thác Bà... Nhưng tiếc thay, tin vui “sống còn” và vui chưa từng thấy như thế, lại chưa về đến với bà con, với lãnh đạo xã. Chính phủ đồng ý từ tháng 7.2011, nhưng đến tháng 8.2012, chúng tôi đến cơ sở, bà con vẫn tuyệt vọng kiến nghị, khóc lóc... vì chưa biết thông tin(!?). 

Ông Tạ Văn Long - Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Yên Bái - trả lời PV Lao Động: “Thấy bà con từng chịu quá nhiều thiệt thòi di dân cho thủy điện Thác Bà nhưng phải sống cảnh đường sá tạm bợ, điện sinh hoạt không có, chúng tôi cũng băn khoăn lắm. Chúng tôi luôn trăn trở, rất mong muốn được sớm cấp điện, xây dựng trường, trạm, cơ sở vật chất cho bà con càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, nguồn lực của tỉnh miền núi không có, ngân sách thu không đáng kể. Chúng tôi đã nhiều lần kiến nghị các bộ, ngành và Chính phủ sớm quan tâm đến vấn đề này.

Mới đây, Chính phủ đã có quyết định về dự án cấp điện lưới quốc gia cho 197 thôn bản, với khoảng 14.000 hộ dân, chúng tôi rất mừng. Nghe nói, năm nay sẽ có khoảng 20 tỉ để triển khai sớm. Vùng Yên Bình, vùng lòng hồ Thác Bà sẽ nằm trong diện được ưu tiên đặc biệt”. Ông Long nhấn mạnh: “Tỉnh Yên Bái cũng đã có ý kiến đề nghị với Chính phủ cố gắng giải quyết việc cấp điện cho 197 thôn bản kia trong vòng 3-4 năm thôi. Chứ mỗi năm chỉ cấp mấy chục tỉ đồng thôi thì dự án sẽ kéo dài, bà con phải đợi điện rất thiệt thòi. UBND tỉnh cũng đã họp để báo cáo với Chính phủ vấn đề này. Vả lại, dự án này do tỉnh Yên Bái làm chủ đầu tư, nên chắc chắn tiến độ cũng nhanh hơn”. 

Vậy là, sau suốt mấy chục năm chờ đợi và xem các đoàn khảo sát kèm theo lời hứa... chờ đợi, hàng ngàn hộ dân lòng hồ thủy điện Thác Bà cũng sắp được có điện. Bà Lương Thị Đánh - người dân thôn Ngòi Ngần, xã Trung Sơn - kỳ vọng: “Lần này, Chính phủ đã ký rồi, hy vọng bà con sẽ không phải thất vọng vì chờ đợi quá lâu, đến mức, rất nhiều người - trong đó có chồng tôi đến chết vẫn thều thào, giá mà quê mình có điện rồi thì tôi chết cũng an lòng...”.
Một số xã đã có điện, nhưng...

Vừa rồi, một số xã từng hy sinh cho việc xây dựng thủy điện Thác Bà đã có điện. Nhưng, ông Lương Hồng Thái thở dài: Chúng tôi chả được gì, thiệt đủ đường. Xã tôi có điện, họ chả ưu tiên gì. Dân không những phải tự mua dây mắc điện về nhà mà còn mua điện với giá quá đắt: 1.900 đồng/ 1 “chữ” điện.

Họ bảo, dân tôi ở xa côngtơ tổng thì phải chịu thiệt thòi thôi, người giàu mới đến, họ ở gần côngtơ, lại được mua... rẻ hơn. Cột điện thì mạnh ai nấy dựng.

Con rể tôi là Trần văn Thanh, hôm rồi có 3-4 con trâu đi qua cột điện đều bị điện giật chết. Nó làm đơn kiến nghị xin hỗ trợ, vì cột điện Nhà nước hở điện làm chết “sức kéo” của dân. Nó ra tận Sở Điện lực, họ bảo, cứ về rồi sẽ tính.

Rồi đến lúc họ trả lời: Trâu bò đi qua cột điện bị giật chết, đó là chuyện của dân với nhau, tự giải quyết với nhau thôi. Cột điện là do dân vùng lòng hồ tự dựng ra để kéo điện mà. “Lạ thế đấy” - ông Thái chán không buồn nói thêm câu nào. 

No comments:

Post a Comment