Phi lộ: Thấy mọi người bàn nhiều
về 2 dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A, nhưng tôi nghĩ cũng ít người có đầy đủ
thông tin để bàn, đây cũng là "nỗi khổ" của chúng ta, trong đó có
tôi. Nhưng đây là những dự án nằm trong hoặc gần với một khu vực bảo tồn rất có
giá trị thì tất nhiên sẽ làm cho chúng ta phải suy nghĩ rất nhiều, không chỉ vấn
đề thuộc phạm vi địa giới của dự án mà có thể còn phải nhìn rộng hơn nhiều. Dưới
đây tôi xin chia sẻ thông tin tóm tắt có liên quan tới Chiến lược Bảo tồn và Phát
triển - một nội dung cốt lõi trong một Hội nghị khoa học ở châu Âu vừa kết thúc
cuối tháng 8/2012 này. Xin trích nguyên văn tóm tắt đăng trên Science
Daily (Aug 30. 2012), hay có thể vào đường dẫn để đọc:
http://www.sciencedaily.com/ releases/2012/08/120830083334. htm
(Conservation Scientists Call
Policy-Makers to Be Scale-Aware)
Tôi nghĩ các ý kiến của cộng đồng đều rất tích
cực. Mọi người đang băn khoăn là chúng ta đã nhìn thấy hết, thấy đủ và hành
động đúng như chúng ta mong muốn hay chưa? Mọi việc chỉ được thỏa mãn
khi vấn đề được tường minh, nhưng có lẽ còn khá xa !!!
TS. Lê Xuân Thuyên
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên TP Hồ Chí Minh (HCMUS)
Các
câu hỏi về tăng cường “nhận thức về quy mô"của các nhà hoạch định chính
sách như thế nào đã được tích cực thảo luận tại một hội nghị chuyên đề đặc biệt
SCALES tại Đại hội Bảo tồn Sinh học (ECCB) châu Âu lần 3 ở Glasgow vào ngày 28-
31 tháng tám năm 2012.
Để thành công, các biện pháp bảo tồn thiên nhiên phải tính đến sự phức tạp đến từ các tác động của con người và sự phản ứng của thiên nhiên, ở quy mô không gian và thời gian khác nhau như thế nào. "nghiên cứu quy mô nhạy cảm" đang nổi lên như là một lĩnh vực mới có tính liên ngành trong bảo tồn thiên nhiên, nơi mà các nhà nghiên cứu khoa học đang phải điều chỉnh từ khái niệm, phân tích, tới các công cụ liên quan tới quy mô có thể áp dụng. Còn về phía các nhà hoạch định chính sách, thì họ phải đảm bảo rằng các quyết định của họ giải quyết được vấn đề sinh thái ở quy mô liên quan về hành chính và không gian. Các nhà khoa học tham gia trong dự án SCALES - dự án tích hợp quy mô lớn được tài trợ bởi Chương trình khung thứ 7 (FP7) của Liên minh châu Âu, đã xác định được một loạt bất hợp lý về quy mô giữa nghiên cứu để bảo vệ đa dạng sinh học thế nào là tốt nhất và trong triển khai chính sách và quản lý, đặc biệt là trong việc thiết kế đề án Natura 2000 - cơ sở hạ tầng xanh và giám sát đa dạng sinh học.
Những mối quan tâm và những
phát hiện mới đã được thảo luận tại cuộc họp chuyên đề về ‘Quy mô-SCALES” tại Hội
nghị Bảo tồn Sinh học Châu Âu lần thứ 3 (ECCB) ở Glasgow vào ngày 28-ngày 31
Tháng Tám 2012. Tiến sĩ Klaus Henle từ Trung tâm nghiên cứu môi trường
Helmholtz UFZ ở Leipzig, Đức và điều phối viên của SCALES đã mở đầu cuộc thảo
luận: " từ lâu chúng ta đã biết rằng các vấn đề quy mô đóng một vai trò quan
trọng trong nghiên cứu sinh thái. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nó càng
trở nên sáng tỏ rằng nhận thức về quy mô cũng rất quan trọng trong việc thiết kế
và triển khai các hoạt động bảo tồn. Công tác bảo tồn trong một thế giới đang
thay đổi nhanh chóng đòi hỏi phải có cách tiếp cận hệ thống và năng động để rút ngắn thời gian từ kết quả
nghiên cứu đến thực hiện chính sách".
Giáo sư William Kunin từ Đại
học Leeds, Vương quốc Anh, bổ sung thêm: "các nhà hoạch định chính sách cần
xem xét không chỉ là sự cần thiết bảo vệ sự phong phú loài (đó là những gì mà
các nhà khoa học gọi là" đa dạng alpha"), mà còn là những thay đổi
trong thành phần loài từ một môi trường sống (habitat) này sang một môi trường
sống khác, hoặc còn được gọi là "đa dạng beta." Cần tập trung vào đa
dạng beta, chứ không phải là tập trung vào số lượng của các loài hoặc là loài
chủ đạo nào trong một khu vực hay trong một quy mô nhất định, thì chắc chắn sẽ
nâng cao được hiệu quả bảo tồn. "
Tiến sĩ Henle cho thấy rằng
vấn đề biến thể có liên quan không chỉ tới yếu tố không gian mà còn tới thời
gian. Ví dụ, một khu vực được xác định là rất quan trọng để bảo vệ thì có thể sẽ
khác nếu chúng ta sử dụng dữ liệu thu được từ các năm khác nhau. Do đó, ngay cả
các chương trình nghiên cứu được xem là tốt và lựa chọn được các khu vực cần bảo
tồn cũng sẽ thất bại nếu họ không xem xét tới những thay đổi trong phân bố loài
và thành phần loài theo thời gian nhiều năm điều tra (được các nhà khoa học gọi
là "biến thể theo thời gian").
Tiến sĩ Guy Pe'er đến từ viện
Môi trường UFZ (Đức) cho rằng "việc kết nối các mảnh còn sót của môi trường
sống tự nhiên phải được làm hiệu quả hơn trong lập chính sách và lập kế hoạch để
cho phép các loài sống sót qua biến đổi khí hậu: nếu môi trường sống tự nhiên vẫn
còn bị phân mảnh, chia cắt quá mức thì hậu quả đơn giản là nhiều loài sẽ không
bao giờ thích ứng kịp với biến đổi khí hậu”. Nhiều nhà khoa học nhận thức được
vấn đề, nhưng vẫn thiếu một kết nối thu hút được sự chú ý hoàn toàn của các nhà
hoạch định chính sách và người lập kế hoạch, một phần bởi vì họ cùng phải đụng
tới vấn đề có "quy mô lớn hơn, phức tạp hơn" về chức năng hệ sinh
thái và các dịch vụ hệ sinh thái. Trong phần trình bày của mình, Guy Pe'er và
Greta Bocedi đã cung cấp cho một số công cụ để thu hẹp khoảng cách này và giảm
nguy cơ bị lỗi khi chuyển từ các nghiên cứu quy mô địa phương đến giải quyết
các mối đe dọa xuất hiện trên quy mô rộng lớn hơn, thông qua mô hình mô phỏng
cá thể (individual-based
simulation).
Tiến sĩ Szabolcs Lengyel và nhóm của ông từ Đại học Debrecen (Hungary) trình bày một cuộc khảo sát qua các tài liệu để tìm hiểu đặc trưng riêng trong chiến lược bảo tồn hiện nay ở những quy mô nhất định là như thế nào. Mặc dù họ thấy là nói chung có nhận thức ngày càng tăng liên quan đến vấn đề quy mô trong bảo tồn, nhưng cũng còn những kiếm khuyết quan trọng. Kết quả của nghiên cứu này kêu gọi các nhà bảo vệ môi trường và các nhà hoạch định chính sách cần phát triển cách tiếp cận theo quy mô nhạy cảm, tương tự như cách thức các nhà sinh vật học tế bào sử dụng độ phóng đại khác nhau sẽ tùy thuộc vào những gì họ muốn quan sát và nghiên cứu một đối tượng dưới kính hiển vi.
Diễn giả chính, Tiến sĩ
Riikka Paloniemi đến từ Trung tâm chính sách môi trường thuộc Viện Môi trường
(SYKE), tại Helsinki (Phần Lan) cho biết: "ở nhiều cấp độ hành chính, các
chính sách quy định việc bảo vệ và quản lý đa dạng sinh học đều có sử dụng đến
các công cụ ở các quy mô khác nhau, và nó liên quan đến một loạt những người thực
hiện trong bộ máy nhà nước và trong khối tổ chức phi chính phủ. Những người này
thường có cái nhìn khác nhau về quy mô trước một thách thức và làm thế nào để đối
phó với nó, vì thế điều này chắc chắn dẫn đến các ý kiến trái ngược nhau.
"
"Đã từ lâu, các câu hỏi
về quy mô, tỷ lệ đã chưa bao giờ được làm rõ. Chính sự sao nhãng, không chú ý tới
quy mô không gian và thời gian dành cho chức năng các hệ sinh thái khi tiến
hành thiết kế các biện pháp bảo tồn có thể dẫn đến hậu quả tiêu cực lâu dài, và
sự thất bại của mục tiêu hội nghị năm 2010 nhằm làm giảm và hạn chế sự suy giảm
đa dạng sinh học ở châu Âu là một trong những ví dụ rõ nhất về điều đó "
là ý kiến của tiến sĩ Klaus Henle đến từ Trung tâm nghiên cứu môi trường
Helmholtz UFZ ở Leipzig (Đức) và là điều phối viên của dự án mang tên SCALES
(Quy mô).
Kết luận chính mà các nhà
khoa học tham dự hội nghị đưa ra là tất cả những bàn luận về các vấn đề liên
quan đến quy mô-tỷ lệ, và các giải pháp tiềm năng cho chúng sẽ góp phần hoàn
thiện sự hiểu biết chung về tính chất phức tạp của các quá trình này. Việc xử
lý một loạt các vấn đề ở quy mô khác nhau cũng như quy mô bảo tồn đa dạng sinh
học đang là sự thách thức, nó đòi hỏi có một cơ cấu phân tích và chính sách có
khả năng đánh giá được tác động bất lợi của biến đổi toàn cầu, và còn vừa thực
hiện được các chính sách ở quy mô – phạm vi có liên quan.
"Có lẽ có khoảng cách lớn nhất giữa các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách là khoảng cách về tốc độ. Chúng ta cần phải làm việc và xuất bản nhanh hơn. Công trình khoa học sẽ bỏ quên mục đích quan trọng nhất của nó là nhắm tới độc giả khi mà thời gian công bố quá chậm. Ngôn ngữ truyền đạt thường là quá nặng về kỹ thuật và kết quả công bố trong các tạp chí chuyên ngành nên lượng truy cập bị hạn chế. Thay vì như vậy, chúng ta cần giao tiếp, chia sẻ dữ liệu và những phát hiện của chúng ta một cách cởi mở hơn và nhanh hơn", đây là kết luận của Tiến sĩ Henle, chủ bút của tạp chí liên ngành mới, truy cập mở - tạp chí Bảo tồn Thiên nhiên (Nature Conservation), địa chỉ http://www.pensoft.net/natureconservation .
Tại đại hội này, Tiến sĩ
Klaus Henle và GS Lyubomir Penev từ Viện Hàn lâm Khoa học Bulgaria đã giới thiệu
ra mắt tạp chí Bảo tồn thiên nhiên nhằm mục đích thu hẹp khoảng cách giữa khoa
học bảo tồn và thực tế thông qua phổ biến các sáng kiến mới và công nghệ có
tính phổ biến. Tạp chí khuyến khích đăng các bài viết không chỉ về các chủ đề
sinh học mà còn về đạo đức xã hội, kinh tế - xã hội, các vấn đề pháp lý và
chính sách liên quan đến quản lý và sử dụng đa dạng sinh học và các hệ sinh
thái.
Chuyển ngữ: Lê
Xuân Thuyên
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên TP Hồ Chí Minh
05/09/2012.
* Tác giả gửi trực tiếp
cho Save Cat Tien NP Group:
“Chào các anh chị,
Tôi
thấy thông tin từ Hội nghị khoa học này có lẽ bổ ích cho nhiều người nên
thông báo cho mọi người. Kèm theo đây là bài lược dịch từ thông tin liên quan
(trong file kèm).
Rất
vui là có thể đóng góp được phần nào trong việc cùng nâng cao hiểu biết chung
về Bảo tồn Tự nhiên.”
Reference:
Biodiversity conservation across scales: lessons from a
science–policy dialogue
Riikka
Paloniemi1, Evangelia Apostolopoulou2,
Eeva Primmer1,
Małgorzata
Grodzinska-Jurczak3, Klaus Henle4,
Irene Ring5, Marianne Kettunen6,
Joseph
Tzanopoulos7, Simon G. Potts8,
Sybille van den Hove9, Pascal Marty10,11,
Andrew
McConville12,
Jukka Similä1
1 Environmental Policy Centre, Finnish Environment Institute (SYKE) 2 Department of Ecology, School of
Biology, Aristotle University of Thessaloniki 3 Jagiellonian University, Institute of Environmental Sciences
4 UFZ – Helmholtz Centre for Environmental Research, Department of
Conservation Biology 5 UFZ –
Helmholtz Centre for Environmental Research,
Department of Economics 6 Institute for European Environmental
Policy (IEEP), London / Brussels c/o Finnish
Environment Institute (SYKE) 7 University of Kent,
Durrell Institute of Conservation and Ecology
(DICE) 8 Centre for Agri-Environmental Research, School
of Agriculture, Policy and Development,
University of Reading 9 Median SCP 10 UMR LIENSs (Coastal
systems, environment and human societies),
CNRS (National Centre for Scientific Research) 11 University of
La Rochelle 12 Institute for European Environmental Policy (IEEP), London
Nature Conservation 2: 7–19 (2012)
doi: 10.3897/natureconservation.2.3144
No comments:
Post a Comment