Khi lãnh đạo và trí thức cùng nhìn một hướng
Trí thức có
thể đối lập với chủ trương của lãnh đạo nếu thấy chủ trương đó đi ngược lại lợi
ích của dân tộc, của đất nước, hoặc thấy không khoa học, không hợp với quy luật
khách quan.
Thông thường trí thức là người hiểu biết, có trình độ văn
hóa cao, có kiến thức chuyên môn, và không bị ràng buộc vào (hoặc có ý thức
tránh xa) những lợi ích phát sinh từ quan hệ với lãnh đạo chính trị. Trí thức
có thể đối lập với chủ trương của lãnh đạo nếu thấy chủ trương đó đi ngược lại
lợi ích của dân tộc, của đất nước, hoặc thấy không khoa học, không hợp với quy
luật khách quan. Nhưng cũng không hiếm những trường hợp lãnh đạo và trí thức
tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau và trí thức giúp lãnh đạo làm nên sự nghiệp cao
cả, đưa đất nước vào thời đại xán lạn. Ngày xưa không thiếu những trường hợp
minh quân gặp hiền tài và cùng làm nên nghiệp lớn. Lưu Bang gặp Trương Lương,
Lê Lợi gặp Nguyễn Trãi là những ví dụ.
Trong thời đại ngày nay, xã hội phức tạp hơn, vai trò của
trí thức và sự thể hiện vai trò đó cũng đa dạng hơn. Lãnh đạo tìm đến trí thức
có thể trực tiếp "tam cố thảo lư" nhưng cũng có thể qua nhiều kênh
gián tiếp. Chẳng hạn lãnh đạo thường quan tâm đến trí thức, thường đọc sách,
đọc báo thì có thể tìm thấy những ý tưởng hay, những đề khởi về con đường phát
triển để tham khảo cho các quyết sách chiến lược. Tiền đềở đây dĩ nhiên là phải
có tự do tư tưởng, tự do ngôn luận để trí thức có cơ hội phát biểu ý kiến của
mình. Mặt khác, nếu xuất hiện nhà chính trị có văn hóa, có đạo đức và tỏ ra có
bản lãnh, có lý tưởng vì đất nước thì qua các quan hệ xã hội hoặc qua các kênh
nghiên cứu, thảo luận rộng rãi, họ có thể quy tụ được bên mình nhiều trí thức
tài năng, tâm huyết.
Vào cuối thập niên 1950 ở Nhật Bản, xuất hiện mẫu người lãnh
đạo lý tưởng đó và trí thức, trí tuệ của xã hội đã cùng với người đó làm nên
một kỳ tích chưa từng có trong lịch sử thế giới: Chỉ trong 10 năm đã biến một
nước có thu nhập trung bình và mới vừa phục hồi sau chiến tranh trở thành một
nước có thu nhập cao, thay đổi hẳn đời sống của đại đa số dân chúng và sánh vai
với các cường quốc kinh tế trên thế giới.
Tình hình chính trị, xã hội ở Nhật vào nửa sau thập niên
1950 rất phức tạp vì bất đồng trong dư luận và giữa các chính đảng liên quan
đến chính sách ngoại giao với Mỹ.
|
Ikeda
Hayato và John Kennedy (trái)
|
Về kinh tế, năm 1956 đánh dấu sự thành công của nỗ lực phục
hưng hậu chiến. Mức sản xuất đã khôi phục lại mức cao nhất thời tiền chiến.
Nhưng cũng trong bối cảnh đó xảy ra tranh luận sôi nổi về hướng phát triển sắp
tới. Chưa có ai vẽ ra được viễn ảnh và đưa ra chiến lược có sức thuyết phục.
Trong tình hình dân chúng đang mệt mỏi vì không khí chính
trị, xã hội căng thẳng, và không có viễn ảnh về tương lai kinh tế, một chính
trị gia kiệt xuất đã xuất hiện. Đó là Ikeda Hayato (1899-1965). Ikeda nguyên là
quan chức Bộ Tài chính, làm đến chức thứ trưởng thì ứng cử vào hạ viện. Trong
lúc tham gia nội các, giữ các chức vụ quan trọng như Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ
Công thương, ông đã quyết chí ứng cử vào chức đảng trưởng đảng cầm quyền LDP
(đồng thời là thủ tướng) để thực hiện giấc mơ đưa nước Nhật lên ngang hàng với
các nước tiên tiến Âu Mỹ.
Ikeda nguyên là một quan chức mẫu mực, một lãnh đạo chính
trị đức độ, thanh liêm. Lúc làm Bộ trưởng Bộ Tài chính, đầu thập niên 1950, ông
dẫn đầu một phái đoàn công du sang Mỹ. Trong tình trạng ngân sách nhà nước hạn
hẹp, ông đã tiết kiệm kinh phí đến mức chỉ thuê khách sạn ba sao và hai ba
người (kể cả Bộ trưởng) ở chung một phòng. Ban ngày đoàn của ông đi làm việc
với chính phủ Mỹ, buổi tối mọi người tập trung tại phòng ông để kiểm điểm công
việc trong ngày và bàn nội dung làm việc cho ngày hôm sau. Khách sạn nhỏ nên
phòng không có bàn, mọi người phải ngồi bệt trên sàn bàn công việc.
Cùng với đức độ và tinh thần trách nhiệm mà nhiều người đã
biết, Ikeda đã được dư luận nhất là giới trí thức đánh giá cao qua những phát
biểu về nhiệm vụ của người làm chính trị, về phương châm phát triển đất nước mà
ông sẽ thực thi nếu được làm thủ tướng. Có mấy điểm đáng chú ý. Thứ nhất, ông
cho rằng giai đoạn sắp tới phải là thời đại kinh tế, Nhật phải tận dụng tiềm
năng về nguồn nhân lực của mình và hoàn cảnh thuận lợi của thế giới để vươn lên
hàng các nước tiên tiến. Thứ hai, triết lý chính trị là vì dân, vì cuộc sống của
dân chúng nên mục đích cuối cùng của phát triển kinh tế là phải tăng thu nhập
của toàn dân và mở rộng mạng an sinh xã hội để giúp người không theo kịp đà
phát triển chung.
Nhưng nguyện vọng, quyết tâm của nhà chính trị phải được cụ
thể hóa bằng chiến lược, chính sách, trước mắt là được đồng tình của dân chúng,
tiếp theo là phải được thực hiện có hiệu quả. Lúc này Ikeda cần đến trí thức.
Đang suy nghĩ tìm kiếm một ý tưởng chủ đạo của chiến lược
phát triển đất nước, Ikeda đọc được bài viết "Luận về khả năng bội tăng
tiền lương" của giáo sư kinh tế Nakayama Ichiro đăng trên báo Yomiuri.
Trong bài viết đó, Nakayama bàn về khả năng cũng như điều kiện để tăng gấp đôi
tiền lương thực chất, cải thiện hẳn mức sống của dân chúng.
Theo gợi ý của giáo sư Nakayama, Ikeda thai nghén một chiến
lược phát triển gọi là "Bội tăng thu nhập quốc dân" và lập ra một
nhóm bảy người gồm các trí thức tên tuổi và các quan chức, các cộng sự tài giỏi
để triển khai cụ thể chiến lược này. Đặc biệt trong số này có Shimomura Osamu
(1910-1989), nhà kinh tế vừa giỏi lý luận vừa hiểu thực tiễn và có năng lực
hình thành các chính sách cụ thể.
Lúc đó ở Nhật đang có tranh luận sôi nổi về hướng phát triển
kinh tế trong giai đoạn tới. Ý kiến chủ đạo lúc đó là trong giai đoạn phục hưng
hậu chiến vừa qua, kinh tế Nhật phát triển khá cao (trung bình độ 8%/năm) vì
khởi điểm quá thấp, trong giai đoạn tới tốc độ phát triển chỉ có thể bằng mức
cao nhất thời tiền chiến (độ 4%) hoặc hơn một chút (5%).
Chủ trương của Shimomura thì khác. Ông cho rằng Nhật đã qua
thời hỗn loạn hậu chiến, hiện nay tiết kiệm trong dân đang tăng, đất nước đang
mở cửa hội nhập với thế giới nên công nghệ nước ngoài sẽ được du nhập dễ dàng;
đó là hai tiền đề để đầu tư tích lũy tư bản. Đầu tư có hai hiệu quả là vừa tăng
tổng cầu vừa tăng khả năng cung cấp (sản xuất) của nền kinh tế. Do đó có thể
nói kinh tế Nhật đang bước vào thời đại bột phát mạnh mẽ. Thời phục hưng hậu
chiến phát triển 8% nên thời đại mới ít nhất phải là 10%. Ngoài giải thích về
mặt lý luận, Shimomura còn dẫn chứng bằng các kết quả tính toán chi tiết nên
rất có sức thuyết phục. Trợ lý cho Shimomura là hai chuyên viên trẻ, hồi đó
chưa có máy tính nên việc tính toán rất mất thì giờ. Trong nhóm bảy người còn
có các nhà kinh tế nổi tiếng khác như Inaba Shuzo, Takahashi Kamekichi, và một
quan chức tài giỏi là Miyazawa Kiichi (sau này cũng làm thủ tướng). Ikeda trực
tiếp tham dự nhiều buổi họp thâu đêm của nhóm này.
|
Tượng của
Ikeda Hayato tại Hiroshima
|
Được nhóm chuyên viên, trí thức triển khai về mặt lý luận và
các chính sách cụ thể, Ikeda tự tin và đã quyết định lấy Chiến lược bội tăng
thu nhập quốc dân làm cam kết chính trị trong cuộc tranh cử vào vị trí chủ tịch
đảng. Ikeda thắng cử và trở thành thủ tướng vào tháng 7 năm 1960.
Cốt lõi của kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân là toàn dụng
lao động, làm cho dân chúng thấy cuộc sống được cải thiện rõ rệt. Phương châm
cơ bản là tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân tích cực đầu tư. Công việc của
chính phủ chỉ là cố gắng tiết kiệm công quỹ để có thể giảm thuế nhằm kích thích
đầu tư, đầu tư xây dựng hạ tầng, và bảo đảm an sinh xã hội. Phát triển là công
nghiệp hóa, là phát triển ngành dịch vụ nên lao động phải chuyển dần từ nông
nghiệp sang các khu vực phi nông. Do đó Ikeda đã nhấn mạnh phải ra sức giáo dục
bậc cao đẳng và hướng nghiệp để quá trình chuyển dịch lao động không bị gián
đoạn.
Mặc dù Shimomura chủ trương phát triển mỗi năm 10% (thu nhập
quốc dân sẽ gấp đôi trong bảy năm), nhưng để dung hòa với nhiều ý kiến khác,
trong kế hoạch được công bố, kinh tế sẽ tăng trưởng độ 7,2% và thu nhập quốc
dân tăng gấp đôi trong 10 năm (1960-1970).
Khi nhậm chức thủ tướng, ngoài bài phát biểu về kế hoạch bội
tăng thu nhập quốc dân, Ikeda còn tuyên bố nhiều ý tưởng được sự đồng tình của
dân chúng. Chẳng hạn, "Làm chính trị là nâng cao mức sống của dân chúng.
Phát triển kinh tế phải trên tiêu chuẩn tăng thu nhập toàn dân, làm cho mọi
người dân cảm nhận thực sự là kinh tế đang phát triển", hoặc "Chính
trị mà để người nghèo không được đi học là chính trị tồi".
Ikeda đã thổi vào xã hội một không khí phấn chấn, tin tưởng
vào tương lai. Doanh nghiệp tích cực đầu tư, mọi người hăng hái làm việc. Trong
bối cảnh đó, đúng như dự đoán của Shimomura, kinh tế phát triển trên 10%, chiến
lược bội tăng thu nhập quốc dân đạt được mục tiêu chỉ trong bảy năm, thay vì 10
năm như kế hoạch ban đầu. Theo giá thực tế năm 2000, tổng thu nhập quốc dân
trên đầu người của Nhật vào năm 1960 là 7.700 USD, đến năm 1970 tăng lên 16.600
USD. Mức chi tiêu của một gia đình giới lao động vào năm 1960 trung bình mỗi
tháng là 32.000 yen, đến năm 1970 đã tăng lên 83.000 yen. Lương tháng của công
nhân trong ngành công nghiệp đã tăng từ 23.000 yen năm 1960 lên 72.000 yen năm
1970. Trừ đi độ trượt giá mỗi năm vài phần trăm, trên thực chất thu nhập của
giới lao động đã tăng gấp đôi hoặc hơn. Ngoài ra, số lao động có việc làm tăng
nhiều hơn so với kế hoạch và số giờ làm việc mỗi tháng của giới lao động giảm
từ 203 giờ còn 187 giờ. Thập niên 1960 cũng là giai đoạn người Nhật chứng kiến
nhà nhà có tủ lạnh, quạt máy, máy giặt, TV,...
Ikeda bị bệnh và mất sớm (năm 1965), lúc đương tại chức thủ
tướng. Ông không sống đến hết giai đoạn của kế hoạch bội tăng thu nhập quốc
dân, nhưng đã chứng kiến những thành tựu bước đầu, cụ thể là ba sự kiện xảy ra
trong năm 1964: Tổ chức Olympic Tokyo thành công, khai trương đường sắt cao tốc
(Shinkansen) Tokyo-Osaka và Nhật trở thành thành viên của Tổ chức hợp tác và
phát triển kinh tế (OECD), một tổ chức của các nước tiên tiến.
Nhà chính trị Ikeda Hayato và nhóm trí thức cộng tác với ông
đã biến giấc mơ của mình thành giấc mơ của toàn xã hội. Họ là những người hiểu
được nguyện vọng của người dân và quyết chí đáp ứng bằng trí tuệ và tâm huyết
của mình.
Tokyo, Xuân Quý Tỵ 2013
Trần Văn
Thọ/ Theo
DNSGCT
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/106987/khi-lanh-dao-va-tri-thuc-cung-nhin-mot-huong.html
No comments:
Post a Comment