12/05/2013
Chuyện ở Sóc Sơn sau 18 năm
Trần Thanh Vân
Kính gửi GS Nguyễn Huệ Chi,
Ngày
12 tháng 3 năm 2010, trang mạng BauxitVN do GS phụ trách đã đăng bài do
tôi viết, tiêu đề: DÔNG DÀI CHUYỆN RỪNG VÀNG BIỂN BẠC, kể lại chuyện
Tướng Đồng Sĩ Nguyên và Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh lên tiếng về công tác
quản lý rừng đầu nguồn lỏng lẻo ở nước ta, cho người nước ngoài thuê để
phá phách thì dễ, nhưng lại ngăn cấm hoặc gây khó khăn đối với người dân
ta.
Cũng trong bài viết này, tôi cũng kể lại
chuyện chúng tôi đã gian truân suốt 15 năm trời, bỏ tiền túi của mình
ra, đền bù cho dân, để nhận quyền xử dụng hợp pháp13 ha rừng ở Sóc Sơn
từ năm 1995, rồi trầy trật xây dựng MÔ HÌNH DỰ ÁN DU LỊCH KIỂU TRANG
TRẠI, nhằm hướng dẫn 2.600 hộ nông dân làm nghề rừng ở huyện này làm
giàu bằng sức lao động của mình, với ước mơ đóng góp một hình mẫu về ĐÔ
THỊ MÀU XANH phục vụ nghỉ ngơi cho dân cư thành phố và bảo vệ hệ thống
Sinh thái Môi trường ở Hà Nội mà chưa thành.
Sau
bài viết đó, tôi trở về củng cố "căn cứ địa" của mình sau 15 năm tàn
phá. Lúc này Luật Bảo vệ và khai thác phát triển rừng 2004 đã có, sau
Luật còn có các Nghị định vàThông tư hướng dẫn thi hành Luật... Nhưng 13
ha rừng của chúng tôi, chỉ còn lại 5 ha nữa thôi. Ngoài quả đồi thông
rất đẹp rộng 3 ha bên Đền Sóc, đã bị Ban Giải phóng mặt bằng huyện Sóc
Sơn "thu hồi để bán cho chủ mới", ăn theo sân gofl Phù Linh Hồng Kỳ,
chúng tôi còn bị lấn chiếm, "mượn" để mở nhà hàng làm ăn, nhưng ở lỳ
luôn để chiếm đoạt, có người còn cả gan cắt những khoảnh đất đẹp rộng
tới 4000 - 5000 m2 đem bán... Chúng tôi mệt mỏi không muốn
đòi lại nữa, ví dụ với ông TXL chủ nhà hàng Long râu tửu quán, chúng tôi
không những cho ông ta tiếp tục kinh doanh Tửu quán trên khu đất ở nhờ
đó, mà còn cho thêm tiền để ông ta chuộc lại đất trả chúng tôi và yêu
cầu ông ta ký cam kết, hứa không lấn chiếm, không xâm phạm nữa, trước sự
giám sát của cán bộ quản lý rừng.
Ngôi nhà sàn
tôi mua từ Mai Châu mang về vẫn còn chắc chắn, chúng tôi sửa sang lại và
treo 2 tấm biển cũ: TRANG TRẠI LONG và LONG' FARM đã bị ông Phó Chủ
tịch UBND huyện bắt dỡ bỏ từ năm 1995 lên chỗ cũ... rồi rào lại hàng rào
dây thép gai và làm cổng ngõ tử tế để bảo vệ.
Cuối năm 2010 tôi mang bản vẽ hồ sơ đến UBND huyện Sóc Sơn làm thủ tục xin phê duyệt DỰ ÁN NHÀ NGHỈ KIỂU TRANG TRẠI.
Theo
Thông tư số 99/2006 của Bộ NN& PTNT ban hành ngày 6/11/2006, hướng
dẫn thực hiện quy chế quản lý rừng, kèm theo Quyết định số 186/2006 -
QĐ/TTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ, thì khu rừng dưới 5 ha do
cá nhân tôi đang đứng tên quản lý, hoàn toàn có thể được ông chủ tịch
UBND huyện phê duyệt DỰ ÁN NHÀ NGHỈ KIỂU TRANG TRẠI (gồm 12 ngôi nhà
nghỉ nhỏ, diện tích mỗi cái từ 100 đến 150 m2 nằm trong khuôn viên có vườn rau, ao cá, khu chăn nuôi gia súc...).
Tôi
đã gặp riêng những người phụ trách các ban ngành, họ khuyên tôi nên tìm
gặp ông Chủ tịch UBND huyện. Tôi đã đăng ký và hơn 1 tháng sau thì mới
được ông Chủ tịch huyện Sóc Sơn bố trí cho gặp. Cùng ông Chủ tịch tiếp
tôi, có rất nhiều cán bộ thuộc các ban ngành của huyện Sóc Sơn như Kinh
tế, Kế hoạch, Nông nghiệp, Quản lý rừng, Văn hóa Du lịch.... được mời
đến để nghe và tham gia ý kiến. Tôi trình bày khá kỹ, hồ sơ bản vẽ và
hình ảnh minh họa khá đầy đủ. Tôi nói rõ dự án của tôi đề xuất có khác
các dự án Du lịch Sinh thái thông thường một chút, 12 ngôi nhà nghỉ rất
đẹp, nhưng nhỏ thôi và làm bằng các vật liệu rẻ tiền dễ kiếm như đá, gỗ,
tre, bê tông nhẹ... tổng cộng chiếm chưa đến 2.000 m2 ( theo quy định được xây dựng 5% trên tổng diện tích 5 ha là 2.500 m2)
ngoài ra là chuồng trại chăn nuôi và vườn cây. Tôi cũng giải thích thêm
rằng đây là ý tưởng tôi thai nghén đã nhiều năm, tôi rất muốn được thực
hiện và tình nguyện hướng dẫn mọi người làm theo.
Nghe
tôi trình bày xong, ông Chủ tịch UBND huyện cho biết: Huyện Sóc Sơn
chưa hề cấp phép cho bất kể một cá nhân nào theo kiểu này. Ông đề nghị
tôi lên báo cáo với Sở Kế hoạch Đầu tư và Sở NN & PTNT TP Hà Nội.
Tôi có cảm giác ông Chủ tịch UBND huyện chưa nắm hết các nội dung nên nói lại với ông chủ tịch:
-
"Theo Thông tư số 99/2006 của Bộ NN & PTNT ngày 6/11/2006, thì dự
án nhỏ này của tôi sẽ do UBND huyện phê duyệt chứ không phải đưa lên
thành phố".
Ông gạt ngay ý kiến tôi và nói:
-
"Chị thông cảm, UBND huyện chưa bao giờ phê duyệt một dự án như vậy.
Chị cứ lên thành phố đi, chị A, chị B, chị C... đều đến xin các anh ở
cấp trên và đều được duyệt cả. Chúng tôi ở cấp huyện sẽ chỉ chấp hành
thôi".
Biết trong một lúc không thể cãi nhau tay đôi với ông Chủ tịch UBND huyện, nên tôi chỉ nói:
-
"Vâng, cám ơn lời khuyên của anh, tôi sẽ lên thành phố. Vậy đề nghị anh
trả lời tôi bằng văn bản, để tôi có cớ sau này không ai trách tôi việc
gì cũng chạy lên cấp trên, gây căng thẳng ồn ào".
Ông
chủ tịch đồng ý và một thời gian sau thì tôi nhận được công văn trả
lời, do một ông Phó Chủ tịch ký, nói rằng tôi đề xuất sai, UBND huyện
Sóc Sơn đề nghị tôi làm lại từ đầu, đi đúng trình tự qua Sở KHĐT Hà
Nội...
Nhiều người nghe chuyện tôi kể, tỏ ra
rất thông cảm, nhưng họ cho là tại tôi không khéo quan hệ nên mới khó
khăn như vậy, chứ các đại gia làm sân Gofl hoặc Khu Du lịch sinh thái
trên diện tích mấy trăm ha cũng dễ như bỡn, còn các cá nhân như Họa sĩ
Thành Chương, ca sĩ Mỹ Linh, nhà báo Dương Xuân Nam, nhà báo Hữu Ước và
bao nhiêu người nữa vẫn xây dựng ầm ầm, có ai gây khó dễ gì đâu?
Tôi
cũng nghĩ, có lẽ mình không "biết cách quan hệ" thật. Nhưng đây là việc
tôi cần phải làm đúng luật, công khai, để làm công trình mẫu cho nhiều
người làm theo thì "quan hệ" kiểu gì đây? Nghĩ thế nhưng mệt mỏi quá,
tôi quyết định tạm gác lại đã.
Vào dịp Tết năm
2010 đến đầu năm 2011, chồng tôi lâm bệnh nặng. Tôi bận túi bụi vì phải
sửa ngôi nhà sàn và mảnh vườn xung quanh cho Nhà tôi lên nghỉ chữa bệnh.
Cả năm 2011 và 2012 tôi không mở mắt ra được vì bệnh tình của Nhà tôi
mỗi ngày mỗi nặng. Rồi ngày 1/12/2012 anh ấy đã vĩnh viễn ra đi, vào lúc
lạnh giá trước dịp Tết Quý Tỵ.
Mẹ con tôi lại
bối rối vì bao việc dở dang Nhà tôi để lại. Cho đến hôm nay, khi mọi
việc đã thư thả để tôi có thể nghĩ đến Sóc Sơn thì vừa đúng lúc báo chí
đăng tin Thanh tra Sở Tài nguyên Môi trường Hà Nội đang tập trung làm rõ
việc mua bán và xây dựng trái phép trên đất rừng của Họa sĩ Thành
Chương và ca sĩ Mỹ Linh ở Sóc Sơn.
Tôi cũng giật mình vì tin đó.
Là
một KTS, tôi không muốn bình luận những công trình kiến trúc trong khu
vực xây dựng đó xấu hay đẹp, giá trị nghệ thuật văn hóa cao thấp đến
đâu? Tôi cũng không muốn bình luận dùng ngữ "Biệt phủ" là nên không nên
và sai đúng ra sao? Tôi chỉ muốn khẳng định rằng ước nguyện của những
chủ nhân này muốn vào rừng sống để tránh khu đô thị ồn ào là chính đáng,
hơn nữa Luật bảo vệ và phát triển rừng cùng những thông tư kèm theo cho
phép họ thực hiện ước nguyện đó.
Vậy tại sao 10
năm qua không ai hướng dẫn họ thực hiện ước nguyện một cách đúng đắn?
Tại sao từ năm 2006 vụ việc Phủ Thành Chương đã bị bới ra, nhưng sai
đúng ra sao không xử lý, nay lại bị bới lại? Tại sao Ca sĩ Mỹ Linh có
200 m2 thổ cư mà được xây 500 m2 công trình? Tóm lại có rất nhiều cái "Tại sao".
Vậy là từ lúc tôi có 13 ha rừng Sóc Sơn đến nay đã 18 năm.
Năm 1995 vì chưa có Luật.
Hôm nay thì có luật rồi, nhưng chưa ai hiểu Luật đầy đủ nên Luật vẫn chưa đi vào cuộc sống!
Xin gửi anh Bản thông tư 99/2006 của Bộ NN7PTNT, những dòng màu đỏ là do tôi tô lên để xem cho rõ.
T.T.V.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
* * *
THÔNG TƯ
CỦA BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
SỐ 99/2006/TT-BNN NGÀY 06 THÁNG 11 NĂM 2006
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN MỘT SỐ ĐIỀU CỦA QUY CHẾ QUẢN LÝ RỪNG
BAN HÀNH KÈM THEO QUYẾT ĐỊNH SỐ 186/2006/QĐ-TTg,
NGÀY 14/8/2006 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004;
Căn cứ Nghị định số 23/2006/NĐ-CP, ngày 03/3/2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng;
Căn cứ Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg, ngày 14/8/2006 của Thủ tướng chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý rừng;
Căn
cứ Nghị định số 86/2003/NĐ-CP, ngày 18/7/2003 của Chính phủ Quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn,
Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế quản lý
rừng ban hành kèm theo Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg, ngày 14/8/2006
của Thủ tướng Chính phủ như sau:
Mục I
QUY ĐỊNH CHUNG
1.
Phạm vi điều chỉnh: Thông tư này hướng dẫn chi tiết một số điều theo
quy định tại Quy chế quản lý rừng ban hành kèm theo Quyết định số
186/2006/QĐ-TTg, ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ.
2.
Đối tượng áp dụng của Thông tư là cơ quan Nhà nước, tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân trong nước, cộng đồng dân cư thôn; người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài có liên quan đến việc bảo vệ và
phát triển rừng tại Việt Nam.
Mục II
QUY ĐỊNH CỤ THỂ
1. Quy định việc phân chia, xác định ranh giới đơn vị quản lý rừng và đất quy hoạch cho lâm nghiệp
1.1.
Rừng và đất quy hoạch cho lâm nghiệp được phân chia thành các đơn vị
quản lý: Tiểu khu, khoảnh, lô theo quy định tại điều 42, Nghị định số
23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và
Phát triển rừng.
Tiểu khu có diện tích không lớn
hơn 1.000 hecta, trong cùng đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn (sau
đây gọi chung là cấp xã). Thứ tự tiểu khu được ghi số bằng chữ số Ả Rập
trong phạm vi của từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây
gọi chung là cấp tỉnh), từ tiểu khu số 1 đến tiểu khu cuối cùng (ví dụ:
Tiểu khu 1, Tiểu khu 2).
Khoảnh có diện tích
không lớn hơn 100 hecta, trong cùng đơn vị hành chính cấp xã. Thứ tự
khoảnh được ghi số bằng chữ số Ả Rập, từ Khoảnh 1 đến khoảnh cuối cùng,
trong phạm vi từng tiểu khu (ví dụ: Khoảnh 1, Khoảnh 2).
Lô
có diện tích không lớn hơn 10 hecta, có trạng thái rừng hoặc đất lâm
nghiệp tương đối đồng nhất, cùng địa bàn trong cấp xã. Thứ tự lô được
ghi bằng chữ cái Việt Nam trong phạm vi từng khoảnh (ví dụ: Lô a, Lô b).
Trong cùng một khoảnh, tên các lô rừng không được trùng nhau.
Số
thứ tự của tiểu khu, khoảnh, lô về cơ bản được ghi số theo trình tự từ
trên xuống dưới, từ trái sang phải, trừ trường hợp được bổ sung sau này.
1.2.
Việc xác định mốc ranh giới, bảng chỉ dẫn thực hiện theo Quy chế xác
định ranh giới và cắm mốc các loại rừng, ban hành kèm theo Quyết định số
3013/1997/QĐ-BNN & PTNT, ngày 20/11/1997 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn.
1.3. Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn (hoặc có thể uỷ quyền cho Chi cục Lâm nghiệp ở nơi có
Chi cục Lâm nghiệp) thống nhất quản lý các đơn vị quản lý rừng và đất
lâm nghiệp, quyết định việc thiết lập, điều chỉnh ranh giới, đơn vị quản
lý rừng và đất quy hoạch cho lâm nghiệp theo đề nghị của các tổ chức tư
vấn về điều tra, quy hoạch rừng tại địa phương.
2. Tiêu chí rừng nghèo kiệt và các loại rừng nghèo kiệt được phép cải tạo; biện pháp, trình tự, thủ tục cải tạo rừng
2.1.
Cải tạo rừng tự nhiên theo Thông tư này được hiểu là việc trồng lại
rừng trên các khu rừng tự nhiên nghèo kiệt, có năng suất, chất lượng
thấp để thay thế bằng rừng trồng có năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh
tế và phòng hộ, bảo vệ môi trường cao hơn.
2.2.
Rừng tự nhiên được xem xét để được phép cải tạo là rừng tự nhiên thoái
hoá hoặc phát triển kém, không có hoặc ít có khả năng phục hồi và phát
triển, nếu áp dụng các biện pháp lâm sinh như: Nuôi dưỡng rừng, làm giàu
rừng, khoanh nuôi tái sinh sẽ đạt hiệu quả thấp, cụ thể:
a) Đối với rừng gỗ thuần loại:
-
Cây gỗ tái sinh mục đích có chiều cao nhỏ hơn 5 mét và đường kính bình
quân dưới 6 cen-ti-met, có mật độ nhỏ hơn 800 cây trên một hecta.
- Trữ lượng gỗ nhỏ hơn 50 mét khối trên một hecta.
b) Đối với rừng tre, nứa thuần loại:
- Rừng nứa, giang, lồ ô đường kính bình quân dưới 3 cen-ti-met, có mật độ nhỏ hơn 8.000 cây trên một hecta.
- Rừng vầu, tre, luồng có đường kính lớn hơn 3 cen-ti-met, mật độ nhỏ hơn 3.000 cây trên một hecta.
c)
Đối với rừng hỗn giao tre nứa và gỗ, tùy mức độ hỗn giao cụ thể để quy
định. Thí dụ: Nếu 1/2 là tre, nứa; 1/2 là gỗ, thì rừng nghèo kiệt có thể
cải tạo là rừng có cây gỗ tái sinh có mật độ dưới 400 cây (hoặc gỗ có
trữ lượng dưới 25 mét khối) và nứa có đường kính nhỏ hơn 3 cen-ti-met,
có mật độ dưới 8.000 cây trên một hecta (hoặc vầu, tre có mật độ dưới
1.500 cây trên một hecta).
Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương quyết định về loài cây mục đích, áp
dụng tiêu chí về trữ lượng hoặc mật độ cây để quyết định cải tạo rừng
phù hợp với thực tế của địa phương.
2.3. Biện pháp cải tạo rừng tự nhiên nghèo kiệt.
Tuỳ theo điều kiện tự nhiên và đặc tính cây trồng mà áp dụng một trong hai phương thức sau:
- Cải tạo cục bộ: Là trồng lại rừng theo băng hoặc đám.
- Cải tạo toàn diện: Là thay toàn bộ lâm phần hiện tại bằng cách trồng lại rừng mới cây có mục đích, trên toàn bộ diện tích lô.
2.4. Trình tự, thủ tục cải tạo rừng.
a)
Việc cải tạo rừng: Đối với tổ chức phải lập dự án; đối với hộ gia đình
và cá nhân phải có đơn đề nghị cải tạo rừng trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt.
b) Đối với các chủ rừng là các Vườn quốc
gia, đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Chủ
rừng lập tờ trình, Cục Lâm nghiệp thẩm định, trình Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn quyết định.
c) Đối với các
chủ rừng khác: Chủ rừng lập dự án, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn thẩm định, trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.
d)
Chủ rừng là hộ gia đình có yêu cầu cải tạo rừng dưới 5 hecta, có đơn đề
nghị cải tạo rừng, có xác nhận của kiểm lâm địa bàn và Ủy ban nhân dân
xã, gửi về Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã xem xét, quyết định. Nếu
cải tạo từ 5 hecta trở lên thì Uỷ ban nhân dân huyện gửi về Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn thẩm định trước khi quyết định phê duyệt.
3. Tiêu chí rừng trồng không thành rừng
Rừng
trồng không thành rừng: Là lô rừng sau thời kỳ đầu tư chăm sóc theo quy
định, có tỉ lệ cây sống dưới 50% so với quy phạm trồng rừng đã được quy
định, hay so với mật độ thiết kế trồng nếu không có quy phạm trồng rừng
đối với loài cây đó và không có khả năng khép tán, mật độ cây phân bố
không đồng đều trên lô, chiều cao cây bình quân dưới 2 mét, đường kính
gốc bình quân dưới 2 cen-ti-met.
4. Tiêu chí rừng phòng hộ đạt tiêu chuẩn
4.1.
Rừng phòng hộ đầu nguồn: Phải tạo thành vùng tập trung, có cấu trúc hỗn
loài, nhiều tầng tán, có độ tàn che từ 0,6 trở lên. Đảm bảo duy trì,
điều tiết nguồn nước, bảo vệ đất, giảm xói mòn.
4.2.
Rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay: Phải có ít nhất một đai rừng
chính rộng tối thiểu 20 mét, kết hợp với các đai rừng phụ tạo thành ô
khép kín; rừng phòng hộ đối với sản xuất nông nghiệp và các công trình
kinh tế được trồng theo băng, theo hàng, mỗi đai, băng rừng gồm nhiều
hàng cây, khép tán theo cả bề mặt cũng như theo chiều thẳng đứng. Đảm
bảo phát huy tác dụng ngăn chặn hoặc làm suy giảm tác hại của gió, cát.
4.3.
Rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển: Phải có ít nhất một đai rừng rộng
tối thiểu 30 mét, gồm nhiều hàng cây khép tán. Các đai rừng có cửa so le
nhau theo hướng sóng chính; cây rừng đã khép tán, hệ rễ phát triển đảm
bảo phát huy tác dụng chắn sóng, ổn định đất, tăng khả năng bồi lấp bờ
biển, ngăn chặn hoặc giảm sạt lở.
4.4. Rừng
phòng hộ bảo vệ môi trường: Là hệ thống các đai rừng, dải rừng và hệ
thống cây xanh xen kẽ các khu dân cư, khu công nghiệp, khu du lịch. Bảo
đảm chống ô nhiễm không khí, tạo môi trường trong sạch, kết hợp với vui
chơi giải trí, tham quan du lịch.
5. Các biện pháp lâm sinh và định mức kinh tế - kỹ thuật để phát triển rừng sản xuất
Trong
những năm qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành các
quy trình, quy phạm kỹ thuật lâm sinh cho một số loài cây trồng. Căn cứ
vào điều kiện tự nhiên của địa phương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn các tỉnh hướng dẫn thực hiện cho phù hợp. Loài cây trồng nào chưa
được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành thì tuỳ theo đặc
điểm và điều kiện tự nhiên, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban
hành quy trình hoặc hướng dẫn biện pháp kỹ thuật lâm sinh để thực hiện.
6. Quy định về việc xây dựng công trình hạ tầng, tỉ lệ diện tích đất được xây dựng các công trình phục vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng trong rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất
6.1. Đối với rừng đặc dụng:
a)
Trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: Được lập các tuyến đường mòn, lều
trú chân, cắm biển chỉ dẫn để tuần tra kết hợp phục vụ dịch vụ du lịch
sinh thái. Tuyệt đối không được làm thay đổi cảnh quan tự nhiên của khu
rừng. Tuyến đường mòn quy định tối đa không quá 1,5 mét chiều rộng.
Trong xây dựng, không được có những hành vi xâm hại đến sinh cảnh sống
của những loài động vật.
b) Trong phân khu phục
hồi sinh thái: Được mở các đường trục chính, xây dựng công trình để bảo
vệ và phát triển rừng kết hợp phục vụ các hoạt động dịch vụ - du lịch.
Mức độ tác động của các công trình hạ tầng phục vụ cho hoạt động du lịch
sinh thái tối đa là 20% tổng diện tích được thuê môi trường rừng đặc
dụng đối với diện tích thuê từ 50 ha trở xuống, trong đó cho phép sử
dụng 5% diện tích được thuê để xây dựng các công trình kiến trúc cơ sở
hạ tầng, 15% diện tích còn lại được làm đường mòn, điểm dừng chân, bãi
đỗ xe; Đối với diện tích thuê lớn hơn 50 hecta, mức độ tác động tối đa
là 15% tổng diện tích được thuê, trong đó cho phép sử dụng 5% diện tích
được thuê để xây dựng các công trình kiến trúc cơ sở hạ tầng, 10% diện
tích còn lại được làm đường mòn, điểm dừng chân, bãi đỗ xe. Phần diện
tích được thuê các công trình hạ tầng phải được xác định rõ trên bản đồ
và phân định rõ ngoài thực địa, thông qua hệ thống biển báo.
c)
Trong phân khu dịch vụ hành chính, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng
nghiên cứu khoa học: Tỉ lệ diện tích đất được xây dựng các công trình
kiến trúc cơ sở hạ tầng không vượt quá 20% diện tích để phục vụ du lịch.
6.2. Đối với rừng phòng hộ:
- Nếu không có sản xuất nông, ngư nghiệp kết hợp thì thực hiện như quy định tại tiết b, điểm 6.1.
-
Nếu có sản xuất nông, ngư nghiệp kết hợp kinh doanh du lịch, xây dựng
cơ sở hạ tầng trên phần diện tích không có rừng thì diện tích cả 2 loại
không vượt quá 25% diện tích trên đất rừng ngập mặn hoặc không quá 20%
diện tích đối với những khu vực phòng hộ đầu nguồn, chắn gió, chắn cát
bay.
Ngoài ra, các khu rừng phòng hộ vẫn phải đảm bảo về tiêu chí như quy định tại khoản 4, Mục II Thông tư này.
6.3. Đối với rừng sản xuất:
- Nếu không có sản xuất nông, ngư nghiệp kết hợp thì thực hiện như quy định tại tiết c, điểm 6.1.
-
Nếu có sản xuất nông, ngư nghiệp kết hợp trên phần diện tích không có
rừng thì diện tích cả 2 loại không vượt quá 25% diện tích.
7. Quy định việc sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp kết hợp trong rừng phòng hộ
7.1.
Không thực hiện sản xuất kết hợp nông - ngư nghiệp ở những vùng phòng
hộ rất xung yếu, đỉnh núi, trong phạm vi 30 mét ven sông, suối hoặc
những nơi có độ dốc trên 30 độ.
7.2. Các Ban
quản lý rừng phòng hộ có trách nhiệm quy hoạch, xác định vị trí, ranh
giới đất đai và phối hợp với các cơ quan khuyến lâm, khuyến nông hướng
dẫn các mô hình sản xuất kết hợp lâm, nông, ngư nghiệp cụ thể cho từng
khu rừng phòng hộ. Những nơi sản xuất kết hợp phải là nơi đất tốt, thuận
lợi cho việc tưới tiêu. Các mô hình sản xuất lâm, nông, ngư nghiệp kết
hợp trong rừng phòng hộ là các mô hình canh tác bền vững trên đất dốc ở
vùng đồi núi, hoặc các mô hình canh tác tổng hợp ở vùng ven biển. Loài
cây và vật nuôi trong các mô hình sản xuất kết hợp lâm, nông, ngư nghiệp
là những loài không gây xói lở đất, có tác dụng cố định bãi cát, thích
hợp với điều kiện môi trường, không gây thoái hoá đất đai, không gây
tình trạng sa mạc hoá.
7.3. Các chủ rừng thực
hiện sản xuất nông, ngư nghiệp kết hợp trong rừng phòng hộ được hưởng
toàn bộ thành quả từ quá trình sản xuất kết hợp trong rừng phòng hộ. Các
chủ rừng thực hiện sản xuất nông, ngư nghiệp kết hợp trong rừng phòng
hộ có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về quản lý bảo vệ
rừng phòng hộ.
Diện tích sản xuất kết hợp được quy định cụ thể như sau:
-
Chủ rừng là tổ chức được sử dụng diện tích đất chưa có rừng để sản xuất
nông, ngư nghiệp kết hợp theo quy hoạch đã được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt.
- Chủ rừng là hộ gia đình,
cá nhân được sử dụng không quá 25% diện tích đất không có rừng trên đất
rừng ngập mặn hoặc không quá 20% diện tích không có rừng đối với khu
vực phòng hộ đầu nguồn, chắn gió, chắn cát bay để sản xuất nông, ngư
nghiệp kết hợp.
Vị trí khu vực sản xuất kết hợp trong rừng phải ổn định trong suốt kỳ quy hoạch rừng.
7.4.
Các chủ rừng thực hiện sản xuất lâm, nông, ngư nghiệp kết hợp trong
rừng phòng hộ, không được thực hiện những hoạt động gây ảnh hưởng xấu
tới quá trình sinh trưởng và phát triển của khu rừng phòng hộ, hoặc làm
đảo lộn quá trình sinh thái tự nhiên của khu rừng, như đắp đê cản trở
lưu thông của thủy triều ở vùng ven biển, hoặc đắp đập gây tích đọng
nước ở vùng đồi núi. Chủ rừng vi phạm các quy định về quản lý bảo vệ
rừng, làm tổn hại tới tài nguyên rừng thì sẽ bị xử phạt theo quy định
của pháp luật.
7.5. Việc kết hợp sản xuất lâm -
nông - ngư nghiệp trong rừng phòng hộ phải thực hiện theo quy hoạch được
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (hoặc uỷ quyền cho Chi cục Lâm
nghiệp) phê duyệt. Trong quy hoạch phải quy định rõ tỉ lệ, quy mô các
công trình nhà, đường, công trình phụ trợ phù hợp với quy định hiện
hành.
Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
8. Quy định khai thác lâm sản trong rừng trồng theo mức độ xung yếu về phòng hộ của rừng sản xuất
8.1.
Việc khai thác gỗ và lâm sản khác từ rừng tự nhiên thực hiện theo quy
chế ban hành kèm theo Quyết định số 40/2005/QĐ-BNN, ngày 07/7/2005 của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
8.2. Đối với rừng sản xuất là rừng trồng có mức độ ít xung yếu về phòng hộ, được khai thác trắng toàn diện theo lô rừng.
8.3.
Đối với rừng sản xuất là rừng trồng có mức độ xung yếu về phòng hộ,
được khai thác 50% diện tích theo băng hoặc theo đám, cụ thể:
-
Chiều rộng băng khai thác không quá 60 mét. Băng khai thác, băng chừa
bố trí song song với đường đồng mức và không liền kề nhau;
- Diện tích đám khai thác lớn nhất không quá 5 hecta, không được khai thác 2 đám liền kề nhau;
- Chỉ khai thác tiếp các băng, đám chừa sau khi đã trồng rừng khép tán trên băng, đám đã chặt.
9. Trình tự, thủ tục lập hồ sơ quản lý và sử dụng tài nguyên trong rừng đặc dụng
9.1.
Ban quản lý rừng đặc dụng phải lập hồ sơ quản lý rừng: Hồ sơ quản lý
bao gồm số liệu về diện tích rừng và tình trạng rừng, tình hình quản lý
rừng và bản đồ kèm theo thể hiện đến lô, khoảnh và tiểu khu rừng. Hồ sơ
phải đảm bảo cập nhật thường xuyên, kịp thời, được lưu giữ và quản lý
dưới dạng tài liệu trên giấy và dữ liệu trên máy tính, gồm các nội dung
sau:
a) Lập bản đồ: Bản đồ dùng để quản lý rừng
đặc dụng là bản đồ địa hình chính xác, có tỷ lệ 1/10.000 đối với các khu
rừng đặc dụng có diện tích dưới 5.000 hecta; 1/25.000 đối với khu rừng
đặc dụng từ 5.000 hecta đến 10.000 hecta; 1/50.000 đối với khu rừng có
diện tích trên 10.000 hecta, có đầy đủ chi tiết địa hình, địa vật làm
căn cứ để phân chia hệ thống đường ranh giới đến mức tiểu khu, khoảnh,
lô.
b) Phân chia các phân khu chức năng rừng
đặc dụng: Việc phân chia các phân khu rừng đặc dụng được thực hiện theo
Điều 14 của Quyết định 186/2006/QĐ-TTg; các đơn vị quản lý rừng như tiểu
khu, khoảnh, lô được quy định tại điểm 1.1, khoản 1, Mục II Thông tư
này.
9.2. Ban quản lý các khu rừng đặc dụng có
trách nhiệm thu thập thông tin cho từng lô, khoảnh, tiểu khu gồm các nội
dung sau: Diện tích; trạng thái rừng, độ che phủ, loài thực vật ưu thế,
loài động vật xuất hiện trong khoảnh và dấu hiệu ghi nhận, thông tin về
các loài sinh vật xâm hại, các số liệu phải được lưu trữ trên giấy, máy
tính và được cập nhật vào bản đồ.
9.3. Ban quản
lý rừng đặc dụng phải xác định các vùng ưu tiên quản lý, bảo vệ rừng,
theo dõi diễn thế sinh thái tự nhiên của rừng. Đối với các phân khu được
quy hoạch phục vụ cho phát triển du lịch như phân khu dịch vụ hành
chính, các tuyến du lịch sinh thái, cần xem xét các tác động làm ảnh
hưởng đến diễn thế tự nhiên của khu rừng và đề xuất các phương án quản
lý, bảo vệ rừng.
9.4. Trình tự, thủ tục lập hồ sơ sử dụng tài nguyên trong rừng đặc dụng:
a)
Chặt nuôi dưỡng rừng: Sau khi được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn cho phép chặt nuôi dưỡng rừng đối với những khu rừng đặc dụng thuộc
Bộ quản lý, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho
phép chặt nuôi dưỡng rừng đối với những khu rừng đặc dụng thuộc tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương quản lý thì chủ rừng tiến hành thiết kế.
Nội dung thiết kế:
- Xác định rõ ranh giới, diện tích theo lô, khoảnh, tiểu khu;
- Tính toán khối lượng sản phẩm có thể tận dụng theo kích thước, loài cây, nhóm gỗ;
- Lập hồ sơ thiết kế các biện pháp lâm sinh (chặt nuôi dưỡng rừng).
Thủ tục trình duyệt:
-
Cục Lâm nghiệp phê duyệt hồ sơ thiết kế chặt nuôi dưỡng rừng cho những
khu rừng đặc dụng thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý.
-
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt hồ sơ thiết kế chặt
nuôi dưỡng rừng cho những khu rừng đặc dụng do tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương quản lý.
Những nguyên tắc trong quá trình chặt nuôi dưỡng rừng:
-
Chặt nuôi dưỡng rừng phải tuân thủ các quy trình, quy phạm nhằm đảm bảo
tái sinh, hạn chế tối đa ảnh hưởng đến cây còn lại, không mở đường vận
xuất, vận chuyển và kho bãi mới mà phải lợi dụng các công trình đã có
hoặc đường mòn để vận xuất, vận chuyển.
- Chặt
nuôi dưỡng rừng phải đúng địa điểm, đúng diện tích, đúng đối tượng đã
được cấp có thẩm quyền phê duyệt và cấp phép. Nghiêm cấm lợi dụng chặt
gỗ nơi khác đưa vào khu vực được phép chặt nuôi dưỡng.
b) Khai thác tận thu:
Lập
hồ sơ tận thu (đối với những khu rừng có cây rừng bị chết khô, gãy đổ
trong các phân khu hành chính, dịch vụ và phục hồi sinh thái).
Sau
khi được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho phép tận thu đối
với những khu rừng đặc dụng do Bộ quản lý, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương cho phép tận thu đối với những khu rừng đặc
dụng do tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý, chủ rừng tiến
hành thu gom ở từng lô, gỗ được tập kết tại đường phân lô, khoảnh, tiểu
khu, sau đó thống kê cụ thể số lóng, số khúc, số cây, số tấm; đo kích
thước, tính khối lượng theo chủng loại gỗ cho từng lô, khoảnh, tiểu khu.
Thủ tục trình duyệt:
-
Cục Lâm nghiệp phê duyệt hồ sơ thiết kế và cấp phép tận thu cho những
khu rừng đặc dụng thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý.
-
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt hồ sơ thiết kế và cấp
phép tận thu những khu rừng đặc dụng thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương quản lý.
Tổ chức tận thu:
- Tận thu phải đúng địa điểm, diện tích, đối tượng đã được cấp có thẩm quyền cho phép.
- Nghiêm cấm lợi dụng đưa gỗ nơi khác vào khu vực được phép tận thu.
10. Quy định thả động vật hoang dã vào rừng
10.1.
Động vật hoang dã bị bắt giữ do vi phạm pháp luật: Nếu còn khoẻ mạnh,
không có bệnh tật phải khẩn trương xử lý để thả chúng về môi trường
thiên nhiên phù hợp với vùng sinh cảnh, nguồn thức ăn của từng loài.
Trong trường hợp động vật hoang dã không được khoẻ mạnh (bị ốm, bị
thương) lập biên bản chuyển giao về các Trung tâm cứu hộ động vật hoang
dã (nếu có điều kiện) để chăm sóc, cứu hộ rồi thả về môi trường tự
nhiên.
Trường hợp động vật hoang dã bị chết
hoặc bị thương không thể cứu chữa được thì lập biên bản bàn giao cho cơ
quan nghiên cứu khoa học xử lý làm tiêu bản để phục vụ đào tạo nghiên
cứu khoa học (nếu có) hoặc tổ chức tiêu huỷ bảo đảm làm sạch môi trường,
hoặc hoá giá để tiêu thụ (nếu có đủ điều kiện về vệ sinh an toàn thực
phẩm).
10.2. Động vật hoang dã từ Trung tâm cứu hộ: Trước khi chuyển giao thả về môi trường tự nhiên trình tự thủ tục như sau:
- Văn bản tiếp nhận chuyển giao động vật hoang dã của ban quản lý khu bảo tồn.
-
Hội đồng giám định Trung tâm cứu hộ lập biên bản giám định động vật
hoang dã đủ điều kiện sống trong môi trường tự nhiên. Nội dung trong
biên bản giám định cần ghi đầy đủ tên loài động vật, tình trạng sức
khoẻ, tập tính sinh học.
- Quyết định của cơ
quan có thẩm quyền về thả động vật hoang dã; biên bản kiểm dịch của cơ
quan thú y và giấy phép vận chuyển động vật hoang dã theo quy định hiện
hành.
11. Quy định việc lưu giữ, sưu tầm mẫu vật, nguồn gen sinh vật rừng trong khu rừng đặc dụng
11.1.
Ban quản lý khu rừng đặc dụng được phép tổ chức các hoạt động nghiên
cứu khoa học, thu thập mẫu vật nguồn gen sinh vật rừng theo kế hoạch đã
được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Đối với các khu rừng đặc dụng trực
thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì Bộ phê duyệt kế hoạch.
Đối với các khu rừng đặc dụng trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh thì Uỷ
ban nhân dân tỉnh phê duyệt kế hoạch.
11.2. Các
Tổ chức, cá nhân trước khi tiến hành thu thập mẫu vật phải có chương
trình, đề án, đề tài nghiên cứu khoa học được cấp có thẩm quyền phê
duyệt (cấp Trường, Viện trở lên), trong đó có thể hiện nội dung thu thập
mẫu vật, nguồn gen. Việc nghiên cứu khoa học, giảng dạy, thực tập trong
rừng đặc dụng được thực hiện theo quy định tại Điều 54 Nghị định số
23/2006/NĐ-CP.
11.3. Đối với mẫu vật của những
loài động, thực vật hoang dã thông thường, muốn thu thập nhằm phục vụ
nghiên cứu khoa học, phải được ban quản lý các khu rừng đặc dụng hay đơn
vị chủ quản lý các khu rừng đó thống nhất cho phép. Đối với mẫu vật của
những loài động, thực vật rừng quý hiếm, muốn thu thập nhằm phục vụ
nghiên cứu khoa học, phải có ý kiến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn.
11.4. Việc sưu tầm mẫu vật, nguồn gen
phải chịu sự giám sát của Ban quản lý khu rừng đặc dụng, hay đơn vị
trực tiếp quản lý khu rừng đó. Đối với mẫu vật, nguồn gen của động, thực
vật hoang dã thông thường thì đơn vị, tổ chức nghiên cứu khoa học được
phép thu mỗi loại mẫu vật của một loài 3 mẫu. Trường hợp đặc biệt cần
thu số lượng mẫu nhiều thì phải có ý kiến của Ban quản lý rừng đặc dụng.
Các mẫu sau nghiên cứu định loại khoa học phải được trả lại Ban quản lý
rừng đặc dụng một mẫu (đối với các Ban quản lý rừng có nhà bảo tàng đủ
khả năng lưu giữ mẫu vật). Đối với các nghiên cứu khác như phân tích hoá
học, sinh, y học phải có báo cáo tóm tắt kết quả nghiên cứu gửi cho ban
quản lý rừng đặc dụng chậm nhất 90 ngày kể từ ngày thu mẫu.
11.5.
Mẫu vật động, thực vật hoang dã không có khả năng giám định khoa học
trong nước, tổ chức, cá nhân muốn giám định khoa học tại nước ngoài phải
được sự đồng ý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Số lượng mẫu
vật gửi đi giám định tối đa là 03 mẫu mỗi loại của một loài (trường hợp
đặc biệt phải có giải trình khoa học). Sau khi giám định, phải trả về
Việt Nam ít nhất 02 mẫu đã xuất khẩu kèm theo kết quả giám định.
11.6.
Bản quyền đối với mẫu vật, nguồn gen thu thập trong rừng đặc dụng do
ban quản lý khu rừng đặc dụng thoả thuận với tổ chức, cá nhân tham gia
nghiên cứu khoa học và được quy định cụ thể trong chương trình, đề tài
nghiên cứu khoa học.
11.7. Việc thu thập mẫu
vật, nguồn gen giống cây trồng lâm nghiệp phải tuân theo quy chế quản lý
giống cây trồng lâm nghiệp ban hành kèm theo Quyết định 89/2005/QĐ-BNN,
ngày 29/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Mục III
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày đăng công báo.
Các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ có trách nhiệm
thực hiện thông tư này.
Trong quá trình thực
hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân
phản ảnh về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để kịp thời sửa đổi,
bổ sung./.
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Hứa Đức Nhị
No comments:
Post a Comment